QPTD -Thứ Bảy, 17/09/2011, 23:17 (GMT+7)
Giá trị lý luận và thực tiễn của Cương lĩnh năm 1991 đối với sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc

Trong sự nghiệp lãnh đạo cách mạng, Đảng ta đã hai lần đề ra Cương lĩnh chính trị, nhằm hoàn thành mục tiêu của cách mạng trong mỗi thời kỳ. Lần đầu vào năm 1930 và lần thứ hai vào năm 1991 - tại Đại hội VII, Đảng ta đã thông qua Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH (trong bài gọi tắt là: Cương lĩnh năm 1991). Đó là những sự kiện chính trị quan trọng, đánh dấu mốc lịch sử trong sự nghiệp cách mạng của Đảng và dân tộc ta.

Cương lĩnh năm 1991 được ban hành trong bối cảnh đất nước đạt được những thành tựu quan trọng sau 5 năm thực hiện đường lối đổi mới do Đảng ta đề ra tại Đại hội VI. Cương lĩnh đã xác định mục tiêu tổng quát của thời kỳ quá độ (gồm nhiều chặng đường); trong đó mục tiêu của chặng đường đầu là: “thông qua đổi mới toàn diện, xã hội đạt tới trạng thái ổn định, vững chắc, tạo thế phát triển nhanh ở những chặng sau”. Cho đến nay, công cuộc đổi mới đất nước đã tiến hành được 22 năm, trong đó có 17 năm thực hiện Cương lĩnh. Nên có thể nói, quá trình đổi mới cũng là quá trình thực hiện Cương lĩnh; những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử mà nhân dân ta đạt được trong công cuộc đổi mới cũng là kết quả của thực hiện Cương lĩnh, dưới sự lãnh đạo của Đảng. Điều đáng mừng và có ý nghĩa là chúng ta đạt được những thành tựu trên trong bối cảnh đất nước phải đương đầu với nhiều khó khăn, thách thức; trong đó có thách thức gay gắt là sự chống phá quyết liệt bằng chiến lược “Diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch và ở mức độ nào đó, còn có sự tác động không thuận của tình hình thế giới, khu vực đối với cách mạng nước ta.

Có thể khái quát: những thành tựu đạt được trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc từ năm 1991 đến nay (từ khi thực hiện Cương lĩnh) đã khẳng định giá trị và ý nghĩa to lớn của Cương lĩnh năm 1991.

Trong bài này, chúng tôi chỉ đề cập  giá trị của Cương lĩnh năm 1991 đối với sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc trên hai mặt: lý luận và thực tiễn.

Về lý luận. Giá trị có ý nghĩa quan trọng nhất, bao trùm nhất của Cương lĩnh là trên cơ sở những nội dung cơ bản về BVTQ, những định hướng lớn về chính sách quốc phòng-an ninh (QP-AN) được xác định trong Cương lĩnh, Đảng ta đã nghiên cứu, từng bước bổ sung, phát triển lý luận bảo vệ Tổ quốc. Điều đó được thể hiện rõ qua văn kiện các kỳ Đại hội VII, VIII, IX, X và các nghị quyết, chỉ thị của Đảng. Đặc biệt, tại Đại hội IX, Đảng ta đã hình thành tương đối hoàn chỉnh hệ thống quan điểm bảo vệ Tổ quốc mang tính cơ bản, toàn diện và đồng bộ. Tiếp đó, nhằm cụ thể hóa hệ thống quan điểm trên, Hội nghị Trung ương 8 (khóa IX) đã ra Nghị quyết về Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới. Trong đó, đã đánh giá tình hình và kết quả thực hiện nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc (từ 1991-2003); xác định phương hướng chiến lược bảo vệ Tổ quốc, mục tiêu, quan điểm, phương châm chỉ đạo, các nhiệm vụ và giải pháp chủ yếu. Đến Đại hội X, Đảng ta tiếp tục bổ sung một số nội dung cho phù hợp với  sự phát triển của tình hình quốc tế và trong nước, đáp ứng yêu cầu bảo vệ Tổ quốc trong bối cảnh toàn cầu hóa, hội nhập kinh tế quốc tế và nước ta là thành viên của Tổ chức Thương mại thế giới (WTO).

Hệ thống quan điểm lý luận bảo vệ Tổ quốc trong thời kỳ mới của Đảng ta gồm nhiều nội dung quan trọng, trong đó có những vấn đề lớn và cơ bản sau: Thứ nhất, về mục tiêu, nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc. Trên cơ sở nội dung, nhiệm vụ của QP-AN được nêu trong Cương lĩnh năm 1991 (trang 7), với tư duy mới, Nghị quyết Đại hội IX của Đảng và Nghị quyết Trung ương 8 (khóa IX) đã xác định: bảo vệ Tổ quốc là bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ; bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ XHCN; bảo vệ sự nghiệp đổi mới, CNH, HĐH đất nước; bảo vệ lợi ích quốc gia, dân tộc; bảo vệ an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội và nền văn hóa; giữ vững môi trường hòa bình, phát triển đất nước theo định hướng XHCN. Như vậy, có thể thấy, về nội hàm, mục tiêu, nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc được đề cập đầy đủ và toàn diện. Trong đó, điểm mới, điểm phát triển và cũng là nội dung cốt lõi là: bảo vệ Tổ quốc không đơn thuần chỉ là bảo vệ độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ mà còn bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ XHCN. Nội dung quan điểm trên thể hiện tư duy mới của Đảng về bảo vệ Tổ quốc. Nó bắt nguồn từ nhận thức sâu sắc của Đảng ta về thời đại, về tính chất phức tạp gay gắt của cuộc đấu tranh giai cấp trong điều kiện mới; xuất phát từ nhận thức về âm mưu của các thế lực thù địch cũng như tính chất nguy hiểm của chiến lược “Diễn biến hòa bình” mà chúng đang tiến hành chống phá cách mạng nước ta. Thứ hai, về Sức mạnh và lực lượng bảo vệ Tổ quốc. Đảng ta khẳng định: sức mạnh bảo vệ Tổ quốc là sức mạnh tổng hợp của khối đại đoàn kết toàn dân tộc, của cả hệ thống chính trị dưới sự lãnh đạo của Đảng, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, sức mạnh của lực lượng và thế trận quốc phòng toàn dân (QPTD) với sức mạnh của lực lượng và thế trận an ninh nhân dân (ANND). Kết hợp chặt chẽ kinh tế với QP-AN và đối ngoại trong mọi hoạt động. Lực lượng bảo vệ Tổ quốc được xác định là toàn dân, trong đó lực lượng vũ trang (LLVT) nhân dân mà trực tiếp nhất là Quân đội nhân dân và Công an nhân dân đóng vai trò nòng cốt. Thứ ba, về phương thức bảo vệ Tổ quốc. Xuất phát từ nội hàm của nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc có sự phát triển mới, nên phương thức bảo vệ Tổ quốc, theo quan điểm của Đảng, mang tính toàn diện, phù hợp với điều kiện mới, đó là: kết hợp đấu tranh vũ trang và phi vũ trang, kết hợp bảo vệ với xây dựng, lấy xây dựng để bảo vệ; quán triệt tư tưởng cách mạng tiến công, tích cực, chủ động, sẵn sàng đánh bại mọi âm mưu và hành động xâm lược của các thế lực thù địch. Thứ tư, về xây dựng nền QPTD. Từ định hướng về quốc phòng của Cương lĩnh, Nghị quyết Đại hội X của Đảng khẳng định: “Xây dựng nền QPTD và nền ANND vững mạnh toàn diện”. Đó là nền quốc phòng mang tính chất toàn dân, toàn diện, độc lập, tự chủ, tự cường và ngày càng hiện đại dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý thống nhất của Nhà nước. Xét về bản chất, nền quốc phòng mà chúng ta đang xây dựng có sự khác biệt với nền quốc phòng của nhiều quốc gia ở chỗ: nó mang đậm tính toàn dân, toàn diện theo tư tưởng “lấy dân làm gốc”; còn đối với họ, nền quốc phòng được xây dựng trên cơ sở thực lực của Nhà nước là chủ yếu và do Nhà nước tiến hành, hầu như có rất ít hoặc không có nguồn lực và sự tham gia từ nhân dân. Điểm mới trong tư duy quốc phòng của Đảng ta là nêu cao ý chí độc lập, tự chủ, tự lực, tự cường, dựa vào sức mình là chính để xây dựng nền quốc phòng.

Về thực tiễn. Thực hiện Cương lĩnh 1991, mà trực tiếp là đường lối, quan điểm, tư tưởng, phương châm chỉ đạo của Đảng đã đề cập ở trên, chúng ta đã giành được những kết quả quan trọng trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc. Thành tựu cơ bản, bao trùm là giữ vững độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của đất nước, sự lãnh đạo của Đảng và chế độ XHCN; đẩy mạnh công cuộc đổi mới, CNH, HĐH đất nước, phát triển kinh tế, bảo đảm QP-AN, giữ vững an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội; tạo lập môi trường quốc tế thuận lợi, mở rộng quan hệ đối ngoại, tăng cường thế và lực của đất nước.

Công tác giáo dục QP-AN cho toàn dân được đẩy mạnh, đạt hiệu quả thiết thực. Đặc biệt, từ năm 2001 đến nay, thực hiện Chỉ thị 62-CT/TƯ (2001), Chỉ thị 12-CT/TƯ (2007) của Bộ Chính trị, công tác giáo dục QP-AN có nhiều đổi mới, được triển khai tích cực, rộng khắp cho mọi đối tượng. Điều đáng mừng là chỉ trong chưa đầy 10 năm (2001-2008), chúng ta đã bồi dưỡng kiến thức QP-AN một cách hệ thống, cơ bản, toàn diện được cho hàng chục vạn cán bộ của Đảng và Nhà nước từ Trung ương đến cơ sở, hàng vạn chức sắc, chức việc các tôn giáo và hàng chục triệu học sinh, sinh viên. Việc giáo dục QP-AN cho toàn dân được đẩy mạnh, với nhiều hình thức phong phú, hiệu quả. Qua đó, tạo sự chuyển biến mạnh mẽ về nhận thức, ý thức và trách nhiệm của cán bộ, đảng viên và nhân dân đối với nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc.

Thấu suốt quan điểm của Đảng (củng cố quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc là nhiệm vụ trọng yếu của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân), chúng ta đã chăm lo xây dựng nền QPTD và nền ANND ngày càng vững mạnh toàn diện, xây dựng thế trận QPTD gắn với thế trận ANND, trước hết là “thế trận lòng dân” ngày càng vững chắc, xây dựng khu vực phòng thủ tỉnh (thành phố) về chiều sâu. Đồng thời, tiếp tục chăm lo xây dựng LLVT nhân dân, nòng cốt là Quân đội nhân dân và Công an nhân dân vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức, thực sự là lực lượng chính trị trung thành, tin cậy của Đảng, Nhà nước và nhân dân. Để tăng cường khả năng phòng thủ đất nước trong điều kiện mới, chúng ta đã thực hiện có hiệu quả bước điều chỉnh chiến lược về bố trí thế trận, lực lượng quốc phòng; phương án, kế hoạch tác chiến phòng thủ các cấp; điều chỉnh tổ chức, biên chế LLVT phù hợp với điều kiện thời bình và sẵn sàng đáp ứng yêu cầu khi đất nước có chiến tranh. Trong quá trình tổ chức thực hiện nhiệm vụ, đã kết hợp chặt chẽ quốc phòng với an ninh, phòng chống hiệu quả chiến lược “Diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch; kịp thời ngăn chặn, dập tắt các vụ gây rối, bạo loạn chính trị ở một số địa bàn, nhất là địa bàn chiến lược; đồng thời, vô hiệu hóa hoạt động chống phá của các đối tượng phản động trong và ngoài nước lợi dụng vấn đề tôn giáo, dân tộc, dân chủ, nhân quyền để gây mất ổn định chính trị-xã hội; xử lý các tình huống, các vấn đề phức tạp, nhạy cảm một cách kịp thời, linh hoạt, hiệu quả, không để các thế lực thù địch lợi dụng, tạo cớ can thiệp dưới các hình thức. Gắn liền với sự nghiệp đẩy mạnh CNH, HĐH, phát triển kinh tế-xã hội, chúng ta đã  không ngừng phát triển tiềm lực, thực lực QP-AN của đất nước;  điều chỉnh thế bố trí chiến lược đối với LLVT phù hợp với ý định, kế hoạch phòng thủ đất nước, nhằm phát huy cao độ sức mạnh quốc phòng, với mục tiêu phòng ngừa chiến tranh và sẵn sàng đánh thắng chiến tranh xâm lược. Tập trung xây dựng Quân đội nhân dân và Công an nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại; từng bước phát triển công nghiệp Quốc phòng, nhằm bảo đảm và nâng cao chất lượng vũ khí, trang bị kỹ thuật cho LLVT. Thực hiện tốt công tác đào tạo, huấn luyện, diễn tập nâng cao trình độ, khả năng sẵn sàng chiến đấu và chiến đấu của LLVT nhân dân, Quân đội nhân dân. Đẩy mạnh công tác tổng kết, nghiên cứu khoa học quân sự, nghệ thuật chiến tranh nhân dân, đáp ứng yêu cầu tác chiến bảo vệ Tổ quốc trong điều kiện mới, chống chiến tranh xâm lược bằng vũ khí công nghệ cao của địch.

Cương lĩnh năm 1991 có giá trị lý luận và thực tiễn hết sức to lớn đối với sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc của nhân dân ta, dưới sự lãnh đạo của Đảng trong gần 20 năm qua. Trên đây chỉ là một số vấn đề mang tính khái quát, nhằm góp thêm ý kiến vào việc tổng kết Cương lĩnh trong thời gian tới.

Đại tá Nguyễn Mạnh Hùng

 

Ý kiến bạn đọc (0)