QPTD -Thứ Năm, 24/11/2011, 01:12 (GMT+7)
Xây dựng và phát triển công nghiệp quốc phòng khi Việt Nam đã là thành viên của WTO

Công nghiệp quốc phòng (CNQP) là một ngành công nghiệp đặc thù của nền kinh tế quốc dân và là một bộ phận cấu thành tiềm lực quốc phòng-an ninh (QP-AN) của đất nước. Bên cạnh những điểm tương đồng trong tác động của WTO đối với công nghiệp dân sinh là: sức ép cạnh tranh thị trường, yêu cầu chuyển đổi cơ chế quản lý,... CNQP có đặc điểm riêng biệt. Đó là, những sản phẩm cốt lõi nhất của CNQP (vũ khí, trang bị kỹ thuật quân sự và công nghệ quân sự…) không nằm trong sự điều chỉnh của định chế pháp lý quốc tế này. Đây không chỉ là trường hợp ngoại lệ của riêng WTO mà ảnh hưởng của quá trình toàn cầu hóa kinh tế sản phẩm quân sự cũng có đặc thù khác so với các loại hàng hóa, dịch vụ dân sự. Hiện tại, dù một số ít mô hình liên kết khu vực (như Liên minh châu Âu…) đã có những bước đi cụ thể về nhất thể hoá tiềm lực CNQP, nhưng về cơ bản, hầu hết các vòng đàm phán về tự do hoá thương mại đều vẫn né tránh các nội dung về mua bán vũ khí và mở cửa CNQP.

Mặt khác, xuất phát từ quan điểm chính trị, vì những lợi ích về an ninh quốc gia, các nước đều có xu hướng hạn chế việc mở rộng phân công chuyên môn hoá quốc tế về công nghệ quân sự. Thêm nữa, tính đặc thù quân sự cũng làm cho CNQP khó "mở cửa", khó gọi vốn đầu tư nước ngoài hơn công nghiệp dân sinh và không thể tự do hoá nhanh như thương mại dân sự. Vì lợi ích bảo mật quân sự, ngay các thành viên Liên hợp quốc cũng chỉ chấp nhận ở mức khiêm tốn việc minh bạch hoá các số liệu liên quan tới vũ khí, trang bị quân sự và CNQP.
Phát triển CNQP cũng là một vấn đề khá nhạy cảm trong công tác đối ngoại. Cạnh tranh trong WTO có thể dẫn tới các cuộc "chiến tranh thương mại", còn cạnh tranh trên thị trường quốc tế về vũ khí, công nghệ quân sự sẽ liên quan tới “chiến tranh lạnh”, chạy đua vũ trang… Thậm chí, sự bế tắc trong giải quyết xung đột lợi ích gắn với các chương trình phát triển vũ khí, trang bị quân sự có thể trở thành một trong các nguyên nhân dẫn tới “chiến tranh nóng”, hoặc có thể bị lợi dụng để tạo dựng nguy cơ, lấy cớ gây sức ép và đe doạ sử dụng sức mạnh quân sự.
Hiện nay, môi trường pháp lý quốc tế liên quan tới mua bán vũ khí, công nghệ quân sự phải chịu sự ràng buộc bởi các chế định riêng lẻ do các tổ chức quốc tế mang tính toàn cầu (Liên hợp quốc…) hoặc các nhóm quốc gia, các tổ chức quốc tế và khu vực… xây dựng, như: Quy định của Liên hợp quốc về Đăng k?ý vũ khí quy ước (UNROCA); Hội nghị giải trừ quân bị (CD); Thoả thuận về kiểm soát mua bán công nghệ cao, công nghệ lưỡng dụng Wassenaar; Hiệp ước cấm phổ biến vũ khí hạt nhân (NBT); Thoả thuận về chuyển giao công nghệ tên lửa (MTCR); Công ước quốc tế về vũ khí hoá học (CWC); các chế định liên quan tới mìn sát thương… Các thể chế pháp lý quốc tế liên quan tới  CNQP vẫn chủ yếu do các nước lớn tạo dựng, dàm phán riêng rẽ nên mang tính chi phối và áp đặt, kể cả việc sử dụng các tổ chức quốc tế đa phương để cản trở khả năng phát triển CNQP của các nước khác cũng như duy trì cấm vận vũ khí, công nghệ quân sự đối với một số thành viên của WTO. Để giữ độc quyền trên thị trường vũ khí quốc tế, các nước mạnh còn tìm cách cản trở sự tham gia của các nước xuất khẩu mới, với việc bổ sung thêm nhiều chế tài kiểm soát, ngăn ngừa, cấm đoán, siết chặt các ràng buộc, bổ sung thêm nhiều tiêu chu?n định lượng và định tính...
Như vậy, trong khi tiêu chí của WTO là thúc đẩy tự do thương mại, thì trong lĩnh vực CNQP, các chế tài pháp lý nêu trên lại bao gồm nhiều nội dung cấm đoán, hạn chế,… Vì vậy, khi gia nhập WTO, có những vấn đề là cơ hội đối với phát triển kinh tế-xã hội nói chung, nhưng không như vậy với CNQP.  
Đối với CNQP Việt Nam, cùng với tiến trình đổi mới, ngành CNQP đã thực hiện được nhiều bước đi quan trọng để phát triển theo hướng chuyển đổi cơ chế quản lý?, từng bước xoá bỏ bao cấp, khắc phục tình trạng khép kín, đưa CNQP hoà nhập với công nghiệp quốc gia, thích ứng với cơ chế thị trường và mở cửa, hợp tác quốc tế. Các nhà máy CNQP đã vượt qua rất nhiều khó khăn, chuyển mạnh sang cơ chế hạch toán, tích cực tham gia có hiệu quả vào quá trình phân công chuyên môn hoá chung của nền kinh tế quốc dân trên cả hai hướng: sản xuất quốc phòng và sản xuất kinh tế. Ngành đã dần tiếp cận với thị trường quốc tế về vũ khí, công nghệ quân sự, đa dạng hoá các nguồn cung cấp, chủ động hơn trong việc lựa chọn các phương án đầu tư phát triển. Kim ngạch xuất khẩu các mặt hàng kinh tế của các doanh nghiệp CNQP có mức tăng trưởng ổn định.
Sắp tới, với những đặc điểm chung và đặc thù đã nêu ở trên, vấn đề nổi trội nhất, là CNQP phải chịu sức ép cạnh tranh gay gắt cả về sản phẩm quốc phòng lẫn kinh tế trên thị trường trong nước và quốc tế. Nếu CNQP không sớm đổi mới và phát triển một cách toàn diện, nhất là về công nghệ, tổ chức lực lượng, lựa chọn sản phẩm... thì khó có thể đáp ứng được yêu cầu, nhiệm vụ mới. Mặt khác, gia nhập WTO, hoạt động sản xuất, kinh doanh của nước ta có điều kiện hơn để thâm nhập vào thị trường quốc tế, có nhiều cơ hội để lựa chọn đối tác hợp tác, nhiều kênh tiếp nhận công nghệ, tiếp cận nhiều nguồn lực,... Song, trong điều kiện hạn chế bởi các chế tài pháp lý quốc tế, CNQP chỉ có thể khai thác cơ hội đó thông qua những bước đi và giải pháp thích hợp với điều kiện, hoàn cảnh của đất nước và thông lệ quốc tế đã ký kết. Để góp phần xây dựng và phát triển CNQP trong môi trường mới, cần quan tâm đến một số vấn đề quan trọng sau:
Một là, phải kiên trì các quan điểm, mục tiêu về xây dựng và phát triển CNQP mà Nghị quyết 27 của Bộ Chính trị về xây dựng và phát triển CNQP, và Quy hoạch phát triển CNQP đến năm 2010, tầm nhìn 2020... đã đặt ra. Trên cơ sở đó, cần tiếp tục đổi mới tư duy lý luận và thực hành triển khai các định hướng chiến lược đã được Đảng và Nhà nước ta hoạch định, theo quan điểm phát triển CNQP phải đặt trong tổng thể chung của đường lối, chính sách phát triển quốc gia, của nền công nghiệp đất nước, của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN; phát huy cao nhất sức mạnh tổng hợp về chính trị, kinh tế, QP-AN, ngoại giao,... tạo môi trường thuận lợi cho CNQP phát triển.
Hai là, gắn với những thay đổi của môi trường trong nước và quốc tế sau khi gia nhập WTO, cần nghiên cứu điều chỉnh các chế độ, chính sách của Nhà nước nhằm mở rộng, đa dạng hoá các nguồn lực phát triển CNQP; chủ động tháo gỡ các cơ chế, thủ tục để có thể huy động sự tham gia của các cá nhân, tổ chức thuộc mọi thành phần kinh tế phục vụ cho CNQP. Một số bộ phận của CNQP nếu có tính dân sự hoặc lưỡng dụng cao thì nên mạnh dạn cổ phần hoá theo chủ trương chung của Nhà nước. Những chủng loại hàng hoá, dịch vụ bảo đảm cho các lực lượng vũ trang có tính lưỡng dụng nên sớm chuyển sang cơ chế đấu thầu, vừa để thu hút rộng rãi nhiều lực lượng tham gia, vừa để nâng cao hiệu quả sử dụng ngân sách quốc phòng trong thời bình. Các nguồn lực huy động được nên tập trung ưu tiên cho các hoạt động nghiên cứu sản xuất và dịch vụ công ích phục vụ QP-AN.
Ba là, để thúc đẩy quá trình hoà nhập CNQP nòng cốt vào nền công nghiệp quốc gia một cách hiệu quả, cần từng bước hạn chế tình trạng khép kín CNQP. Điều chỉnh mô hình tổ chức quản lý nhằm tăng cường sự chỉ đạo trực tiếp của Chính phủ đối với CNQP; tăng cường vai trò của Bộ Quốc phòng giúp Chính phủ chủ trì phối hợp trách nhiệm của các bộ, ngành, địa phương trong quản lý nhà nước về CNQP. Tổ chức, sắp xếp lại lực lượng CNQP nòng cốt, tăng cường tích tụ, tập trung, gắn kết có hiệu quả giữa khoa học-công nghệ-sản xuất... để đủ sức đứng vững và phát triển khi hòa nhập và chuyển đổi cơ chế. Cùng với quá trình đổi mới hệ thống chính trị, cải cách hành chính bộ máy Nhà nước, tiếp tục kiện toàn tổ chức quản lý CNQP phù hợp với pháp chế quốc tế mà Việt Nam đã cam kết tham gia.
Đổi mới về cơ chế quản lý và tổ chức lực lượng CNQP cần có bước đi thận trọng, phù hợp để bảo vệ tính bền vững của tiềm lực, tránh các tác động tiêu cực và bảo đảm tương thích với khả năng cạnh tranh thị trường của các doanh nghiệp CNQP. Nghiên cứu các biện pháp để từng bước dân sự hoá các hình thức pháp lý về cơ cấu tổ chức, tên gọi, cơ chế quản lý vốn, tài sản và quyền tự chủ của các đơn vị CNQP nòng cốt. Tạo điều kiện thuận lợi cho các cơ sở sản xuất quốc phòng tăng cường mối quan hệ giao kết kinh tế, thương mại với các đối tác ở trong và ngoài nước. Bên cạnh sự tài trợ của Chính phủ (yếu tố không thể thiếu đối với CNQP), cần nghiên cứu giảm bớt sự bao cấp trực tiếp, mở rộng các hình thức hỗ trợ gián tiếp phù hợp hơn với các thông lệ quốc tế về hoạt động của doanh nghiệp; minh bạch các thủ tục kiểm toán, phương thức thanh toán và các yêu cầu bình đẳng trong cạnh tranh thị trường…
Nền kinh tế nước ta sau khi gia nhập WTO sẽ có xu hướng ngày càng "thị trường, mở cửa” hơn, nên trong quá trình thúc đẩy hội nhập CNQP vào cơ cấu chung của công nghiệp quốc gia, chúng ta phải nghiên cứu, chuẩn bị đối sách ngăn ngừa các tác động tiêu cực, hạn chế tối đa mọi ảnh hưởng bất lợi trong các tình huống khủng hoảng để bảo đảm tính bền vững của CNQP. Chủ động chuẩn bị động viên công nghiệp, có các biện pháp nhằm củng cố các nguồn dự trữ quốc gia, điều chỉnh thế bố trí chiến lược CNQP trên các địa bàn, có những biện pháp bảo vệ các cơ sở CNQP trọng yếu khi có chiến tranh…
    Bốn là, cần tăng cường mở rộng các hoạt động hội nhập quốc tế của CNQP. Trong đó, cần chủ động tiếp cận và tìm hiểu các mô hình hợp tác đa phương; thí điểm các hình thức liên doanh, liên kết; thông qua nhiều hình thức, cơ chế khác nhau để thu hút và khuyến khích người Việt Nam ở nước ngoài tham gia xây dựng và phát triển CNQP... Tiếp tục củng cố mối quan hệ với các đối tác truyền thống, tăng cường thiết lập quan hệ với những đối tác mới, từng bước khắc phục các rào cản liên quan tới chuyển giao công nghệ cho CNQP. Thường xuyên phối hợp lực lượng liên ngành để đấu tranh bảo đảm lợi ích quốc gia trong lĩnh vực pháp lý quốc tế liên quan tới CNQP, góp phần gây dựng lòng tin, gìn giữ hoà bình quốc tế và khu vực.
    Năm là, trong quá trình hội nhập CNQP vào môi trường chung của nền kinh tế thị trường, mở cửa, hợp tác quốc tế, càng phải tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với CNQP; không ngừng nâng cao năng lực, vai trò lãnh đạo của các tổ chức Đảng trong các cơ sở CNQP nòng cốt. Đây là một trong những yêu cầu rất quan trọng, nhằm gắn việc phát triển tiềm lực với xây dựng CNQP về chính trị, để CNQP luôn phát huy tốt vai trò là một bộ phận quan trọng của thành phần kinh tế Nhà nước, góp phần bảo đảm tính định hướng XHCN đối với nền kinh tế quốc dân.  
Xây dựng và phát triển CNQP trong điều kiện Việt Nam là thành viên của WTO đặt ra cho chúng ta nhiều vấn đề phải quan tâm. Những vấn đề nêu trên có tính chất nghiên cứu, gợi mở, góp phần xây dựng ngành CNQP phát triển, đáp ứng có hiệu quả yêu cầu, nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc thời kỳ mới.
 
Đại tá, PGS, TS. Đoàn Hùng Minh
Cục trưởng cục Tham mưu-Kế hoạch
Tổng cục Công nghiệp quốc phòng
 
Ý kiến bạn đọc (0)