Thứ Bảy, 23/11/2024, 05:51 (GMT+7)
Ấn phẩm tạp chí in
Yêu cầu và định hướng xây dựng, nâng cao sức mạnh chiến đấu của Quân đội nhân dân trong giai đoạn mới được các nghị quyết của Đảng, nhất là Nghị quyết Trung ương 8 (khóa IX) và Nghị quyết Đại hội X xác định: Xây dựng Quân đội nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại; nâng cao chất lượng tổng hợp, sức mạnh chiến đấu để quân đội thật sự trong sạch vững mạnh, tuyệt đối trung thành với Tổ quốc, với Đảng, Nhà nước và nhân dân, được nhân dân tin cậy, yêu mến. Yêu cầu đó thể hiện những đòi hỏi cao trước sự phát triển của tình hình cách mạng nước ta và yêu cầu nhiệm vụ của quân đội nói chung, của các binh đoàn chủ lực cơ động nói riêng.
Trên cơ sở nắm vững đường lối, quan điểm, nhiệm vụ quân sự, quốc phòng của Đảng trong tình hình mới, những năm qua, các binh đoàn chủ lực cơ động của quân đội ta đã được tổ chức, biên chế tương đối phù hợp với nhiệm vụ của thời bình và sẵn sàng đáp ứng yêu cầu thời chiến. Đồng thời, không ngừng rèn luyện bản lĩnh chính trị, xây dựng toàn diện để từng bước nâng cao chất lượng tổng hợp và trình độ sẵn sàng chiến đấu (SSCĐ), thực sự là lực lượng chính trị trung thành, tin cậy của Đảng, Nhà nước và nhân dân. Tuy nhiên, sức mạnh tổng hợp và khả năng SSCĐ của các binh đoàn chủ lực cơ động có mặt chưa đáp ứng đầy đủ yêu cầu nhiệm vụ mới. Điều đó đặt ra cho các binh đoàn chủ lực cơ động phải tiếp tục đổi mới tư duy, xây dựng đơn vị vững mạnh toàn diện để không ngừng phát huy bản chất, truyền thống tốt đẹp, nâng cao sức mạnh chiến đấu và khả năng SSCĐ, đáp ứng với yêu cầu nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN trong thời kỳ mới.
Sức mạnh chiến đấu của binh đoàn chủ lực cơ động phụ thuộc vào nhiều yếu tố: trạng thái chính trị-tinh thần; tổ chức, biên chế phù hợp; trình độ và năng lực của đội ngũ cán bộ lãnh đạo, chỉ huy, hiệu quả lãnh đạo của các tổ chức đảng; trình độ SSCĐ, chất lượng huấn luyện bộ đội; trình độ chính quy, ý thức chấp hành pháp luật Nhà nước, kỷ luật quân đội; công tác bảo đảm hậu cần; số lượng, chất lượng vũ khí, trang bị kỹ thuật và các phương tiện bảo đảm khác… Trong bài này, chúng tôi chỉ đề cập đến mấy vấn đề chủ yếu, cũng là những biện pháp cần tập trung giải quyết để cùng nghiên cứu, trao đổi.
1- Tổ chức, biên chế của các binh đoàn chủ lực cơ động phải phù hợp với nhiệm vụ tác chiến trong thời kỳ mới. Những năm gần đây, quân đội nhiều nước trên thế giới có xu hướng thay đổi cơ cấu lực lượng theo mô hình nhỏ, đa dạng hóa và nhất thể hóa về tổ chức biên chế. Các tổ chức này sẽ giảm thiểu được chỉ huy qua nhiều cấp, nâng cao khả năng phản ứng nhanh với các tình huống; công tác chỉ huy và hoạt động tác chiến linh hoạt, hiệu quả hơn. Đối với quân đội ta, trong gần hai thập kỷ qua, việc tổ chức, biên chế, xây dựng các binh đoàn chủ lực cũng từng bước được cơ cấu lại cho phù hợp với yêu cầu nhiệm vụ của quân đội và từng đơn vị. Tuy nhiên, cần thấy rằng, trong tương lai, nếu kẻ thù liều lĩnh tiến hành chiến tranh xâm lược nước ta, chắc hẳn cuộc chiến tranh đó sẽ rất ác liệt, tình huống thay đổi mau lẹ và chủ yếu bằng các loại vũ khí, trang bị kỹ thuật hiện đại, hỏa lực mạnh, sức cơ động và đột kích cao, tác chiến điện tử rộng rãi, tiến công xâm lược trên nhiều hướng, có thể bằng đường bộ, đổ bộ đường không, đổ bộ đường biển, tiến công vượt điểm..., kết hợp với bọn phản động bên trong gây bạo loạn, lật đổ hòng đánh chiếm các mục tiêu trọng yếu của ta. Đối phó với loại hình chiến tranh này, đòi hỏi lực lượng vũ trang nhân dân, quân đội nhân dân, đặc biệt là các binh đoàn chủ lực cơ động phải giải quyết tốt vấn đề tổ chức, biên chế, trang bị để từ đó tập trung huấn luyện, nâng cao sức mạnh chiến đấu và khả năng SSCĐ ngang tầm nhiệm vụ. Để lựa chọn mô hình phát triển thích hợp, theo chúng tôi, tổ chức, biên chế các binh đoàn chủ lực cần phải tinh, gọn, có khả năng cơ động nhanh, tác chiến linh hoạt trên các hướng, vùng chiến lược. Trên các hướng, vùng chiến lược trọng yếu của đất nước, nên tổ chức, bố trí các binh đoàn chủ lực cơ động; các vùng khác có thể tổ chức một hoặc một số sư đoàn bộ binh cơ động nhanh. Tăng cường lực lượng, phương tiện trinh sát để nắm địch, nắm chắc địa bàn. Tăng cường lực lượng phòng không, lực lượng bảo đảm (trinh sát, công binh, hóa học, thông tin…) cho các sư đoàn bộ binh và các đơn vị binh chủng, đủ sức hoàn thành nhiệm vụ. Đối với đơn vị khung thường trực, khung rút gọn của các binh đoàn hiện nay, cần tiếp tục nghiên cứu tổ chức, biên chế cho phù hợp về số lượng, chất lượng để có đủ khả năng hoàn thành nhiệm vụ tiếp nhận nguồn dự bị động viên khi có tình huống xảy ra. Nghiên cứu điều chỉnh các định mức thời gian ở từng cấp về động viên và công tác bảo đảm các mặt trong quá trình động viên, nhất là bảo đảm lãnh đạo, chỉ huy, trang bị vũ khí cho các đơn vị động viên. Muốn thế, ngay trong thời bình, cần có sự phối hợp chặt chẽ giữa các đơn vị của binh đoàn với cấp ủy, chính quyền và cơ quan quân sự địa phương về quản lý số lượng, chất lượng, đặc biệt là thống nhất đánh giá, nhận xét, sắp xếp đội ngũ cán bộ, chiến sĩ khung B; tăng cường phúc tra chất lượng nguồn dự bị động viên, tổ chức huấn luyện đúng kế hoạch và bảo đảm chất lượng, nhất là chất lượng chuyên nghiệp quân sự.
2- Nâng cao hơn nữa chất lượng huấn luyện, rèn luyện bộ đội sát với yêu cầu nhiệm vụ của binh đoàn chủ lực cơ động trong chiến tranh nhân dân bảo vệ Tổ quốc. Phải tiếp tục đổi mới huấn luyện một cách tích cực, hiệu quả theo phương châm “cơ bản, thiết thực, vững chắc”. Coi trọng huấn luyện đồng bộ và chuyên sâu, bám sát yêu cầu nhiệm vụ, đối tượng tác chiến và thực tiễn chiến đấu, phù hợp với tổ chức, biên chế, trang bị, địa bàn hoạt động và cách đánh truyền thống, thích nghi với hình thái và phương thức tiến hành chiến tranh nhân dân bảo vệ Tổ quốc trong điều kiện mới, khi địch sử dụng vũ khí công nghệ cao, tác chiến điện tử mạnh. Theo đó, phải kết hợp chặt chẽ, hài hòa giữa huấn luyện cơ bản và ứng dụng, giữa kỹ thuật và chiến thuật, lấy huấn luyện kỹ thuật làm cơ sở, huấn luyện chiến thuật làm trung tâm; tăng cường huấn luyện đêm, huấn luyện dã ngoại, huấn luyện ngụy trang, nghi binh và rèn luyện khả năng cơ động trên các loại địa hình, thời tiết phức tạp; bảo đảm bộ đội giỏi tác chiến bằng vũ khí có trong biên chế và khi được tăng cường binh khí kỹ thuật hàm lượng công nghệ cao; giỏi tác chiến độc lập với các hình thức chiến thuật vận động tiến công, vận động tập kích, phục kích, tiến công địch tạm dừng, phòng ngự…; giỏi tác chiến hiệp đồng quân chủng, binh chủng và hiệp đồng ba thứ quân trong khu vực phòng thủ (KVPT) địa phương. Trên cơ sở quán triệt và thực hiện tốt 3 quan điểm, 8 nguyên tắc, 6 mối kết hợp trong tổ chức và điều hành huấn luyện, tiếp tục đổi mới tổ chức và phương pháp huấn luyện, tập trung thực hiện tốt công tác tập huấn, bồi dưỡng cán bộ, nhất là đối với cán bộ cấp phân đội. Tiếp tục đổi mới tổ chức và phương pháp diễn tập; xây dựng các tình huống diễn tập phù hợp với địa hình và sát gần với nhiệm vụ chiến đấu của binh đoàn chủ lực. Trong đó, chú trọng các tình huống cơ động, phòng tránh, đánh trả và ngụy trang, nghi binh, trong điều kiện địch sử dụng vũ khí công nghệ cao. Nghiên cứu, thiết bị lại các thao trường, bãi tập; cải tiến và nâng cao chất lượng các mô hình học cụ, đồ dùng huấn luyện, ứng dụng khoa học-công nghệ vào huấn luyện cho phù hợp với điều kiện tác chiến hiện đại.
3- Nâng cao chất lượng bảo đảm hậu cần, bảo đảm kỹ thuật và bảo đảm cơ động, sát với yêu cầu nhiệm vụ huấn luyện, SSCĐ của binh đoàn chủ lực cơ động. Xuất phát từ yêu cầu nhiệm vụ của các binh đoàn chủ lực cơ động, mọi yêu cầu về bảo đảm hậu cần cho huấn luyện, SSCĐ và chiến đấu phải được dự trữ ngay từ đầu, bảo đảm đủ số lượng, đúng chủng loại, thường xuyên được thay thế theo kiểu “đổi hạt”; quản lý, sắp xếp gọn gàng, tiện cấp phát khi đơn vị cơ động làm nhiệm vụ và bổ sung kịp thời trong quá trình cơ động, chiến đấu. Trước mắt, cùng với việc bảo đảm hậu cần thường xuyên cho bộ đội, các đơn vị phải tổ chức tốt việc bảo đảm hậu cần cho nhiệm vụ huấn luyện, SSCĐ, cơ động lực lượng chuyển dịch, phòng tránh, đánh trả địch và các phương án tác chiến của binh đoàn. Đồng thời, nghiên cứu bố trí hợp lý hệ thống kho tàng cấp chiến dịch một cách linh hoạt, giữa hệ thống kho tàng cố định và tổ chức các hệ thống kho cơ động của binh đoàn với hệ thống bảo đảm hậu cần cấp chiến lược và hậu cần KVPT. Hoàn thiện các phương án xây dựng các căn cứ hậu cần chiến dịch của binh đoàn theo các phương án tác chiến được giao trong thế trận hậu cần cấp chiến lược, hậu cần KVPT, nhằm bảo đảm kịp thời hậu cần tại chỗ khi tình huống tác chiến xảy ra. Nghiên cứu, cải tiến và trang bị mới các thiết bị hậu cần, đặc biệt là ngành quân nhu, quân y và vận tải, bảo đảm xăng dầu để tăng cường khả năng bảo đảm hậu cần vững chắc trong mọi tình huống, nhất là tình huống cơ động đánh địch.
Về bảo đảm kỹ thuật, các binh đoàn phải khắc phục khó khăn, phát huy tinh thần chủ động, tự lực, tự cường, triển khai toàn diện công tác bảo đảm kỹ thuật, bảo dưỡng, sửa chữa trang bị đủ số lượng, đúng chủng loại, đồng bộ, duy trì hệ số trang bị, hệ số kỹ thuật theo đúng quy định, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ huấn luyện, SSCĐ và các nhiệm vụ đột xuất được giao. Tập trung bồi dưỡng nâng cao trình độ nghiệp vụ cho đội ngũ cán bộ chỉ huy kỹ thuật và nhân viên chuyên môn, kỹ thuật; nâng cao năng lực quản lý, sử dụng có hiệu quả vũ khí, trang bị hiện có trong biên chế. Đẩy mạnh công tác nghiên cứu khoa học quân sự, khoa học kỹ thuật quân sự, ứng dụng các đề tài khoa học đó vào việc cải tiến, nâng cấp vũ khí, trang bị hiện có; sản xuất một số loại vũ khí, trang bị hậu cần-kỹ thuật, bảo đảm cho nhiệm vụ huấn luyện và SSCĐ. Đề nghị Nhà nước, Bộ Quốc phòng quan tâm, ưu tiên đầu tư ngân sách, kinh phí, từng bước mua sắm một số loại vũ khí, trang bị kỹ thuật hiện đại, để nâng cao sức mạnh chiến đấu và hiệu quả thực hiện nhiệm vụ của binh đoàn chủ lực cơ động trong thời kỳ mới.
Việc bảo đảm cơ động (cả phương tiện và đường cơ động) của các binh đoàn chủ lực là nhân tố hết sức quan trọng, đang đặt ra những yêu cầu mới. Về phương tiện cơ động, cùng với số phương tiện trong biên chế và được tăng cường, phối thuộc của cấp trên và đơn vị bạn, binh đoàn chủ lực cần khai thác tối đa khả năng bảo đảm của các KVPT địa phương. Khi huy động phương tiện của KVPT, các cơ quan chức năng của binh đoàn và đơn vị cần dành thời gian nhất định để kiểm tra, bảo dưỡng, bổ sung nhiên liệu trước khi cơ động. Đối với đường cơ động, các binh đoàn chủ lực cần triệt để lợi dụng mạng đường có sẵn, hệ thống đường liên thôn, liên xã, liên huyện để cơ động lực lượng. Chủ động tham gia, phối hợp với ngành Giao thông-Vận tải và các địa phương trên địa bàn hoạt động xây dựng quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội gắn với tăng cường quốc phòng-an ninh, nhất là phát triển mạng lưới đường sá, cầu, cống, bến bãi..., đáp ứng cả yêu cầu phát triển kinh tế-xã hội, phục vụ dân sinh và bảo đảm cơ động lực lượng, phương tiện của lực lượng vũ trang trong thời chiến.
Cùng với việc chăm lo xây dựng đơn vị vững mạnh về chính trị, tập trung giải quyết ba vấn đề trọng tâm nói trên sẽ cho phép nâng cao hơn chất lượng tổng hợp và trình độ SSCĐ của các binh đoàn chủ lực cơ động, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong mọi tình huống.
Đại tá Nguyễn Hoàng
Phó Tư lệnh Binh đoàn Cửu Long
Trao đổi ý kiến giữa Tạp chí quốc phòng toàn dân với bạn đọc, cộng tác viên Quân khu 5 12/12/2011
Nghệ thuật tổ chức, sử dụng lực lượng quân sự trong những ngày đầu kháng chiến toàn quốc 12/12/2011
“Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến” với việc xây dựng nền quốc phòng toàn dân trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc hiện nay 12/12/2011
Một số vấn đề về nghệ thuật chiến dịch phòng ngự trong chiến tranh bảo vệ Tổ quốc 12/12/2011
Hưng Yên không ngừng nâng cao hiệu quả công tác giáo dục quốc phòng 12/12/2011
Kết quả và kinh nghiệm tiến hành công tác phổ biến, giáo dục pháp luật của lực lượng vũ trang Quân khu 5 12/12/2011
Đoàn B.90 nâng cao chất lượng xây dựng lực lượng dự bị động viên - một số kinh nghiệm bước đầu 12/12/2011
Trường Quân sự Binh đoàn Cửu Long phấn đấu nâng cao chất lượng giáo dục, đào tạo và huấn luyện 11/12/2011
Kết hợp kinh tế với quốc phòng, tạo lập thế trận phòng thủ vững chắc trên địa bàn tỉnh ven biển Thái Bình 11/12/2011
Trung tâm Nhiệt đới Việt - Nga phát huy nội lực, mở rộng hợp tác, nâng cao hiệu quả hoạt động 11/12/2011