QPTD -Chủ Nhật, 04/09/2011, 00:17 (GMT+7)
Xây dựng giai cấp công nhân Việt Nam trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập kinh tế quốc tế

Quá trình đẩy mạnh CNH, HĐH và hội nhập kinh tế quốc tế (HNKTQT) của nước ta ngày càng sâu rộng, đã dẫn đến sự phát triển nhanh về số lượng, biến động mạnh về cơ cấu giai cấp công nhân (GCCN). Tính đến đầu năm 2007, tổng số công nhân làm việc trong các doanh nghiệp và các cơ sở sản xuất, dịch vụ công nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế là trên 9,5 triệu người, chiếm 11% dân số, 21% lực lượng lao động xã hội. So với năm 1995, số lượng công nhân nước ta đã tăng 2,3 lần. Về tỷ lệ: công nhân trong doanh nghiệp nhà nước chiếm khoảng 22%; trong các doanh nghiệp tư nhân và tập thể chiếm 61,5%; trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài chiếm 16,5%.  

Cơ cấu ngành nghề đang có sự chuyển dịch mạnh mẽ. Công nhân ở các ngành công nghiệp, xây dựng, dịch vụ tăng nhanh; trong lĩnh vực nông, lâm, thủy sản có xu hướng giảm. Hiện nay, công nhân trong các ngành công nghiệp chiếm 44,8%, xây dựng chiếm 9,78%, thương mại và dịch vụ chiếm 29,46%, vận tải chiếm 6,69% và các ngành khác là 9,27%. Quá trình đẩy mạnh CNH, HĐH đã xuất hiện một số ngành kinh tế mũi nhọn: dầu khí, điện tử, tin học, bưu chính - viễn thông, hàng không, dịch vụ... Đội ngũ công nhân ở các ngành này cũng đang tăng nhanh cả về số lượng và chất lượng.       GCCN nước ta có tuổi đời, tuổi nghề trẻ. Về tuổi đời, từ 18 đến 30 chiếm 48,9%, tuổi trên 50 chỉ chiếm 4,8%. Đặc biệt, ở các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, công nhân có độ tuổi từ 18 đến 30 chiếm tới 70,4%, tuổi trên 50 chỉ chiếm khoảng 2%. Về tuổi nghề, 54,7% công nhân có số năm làm việc dưới 5 năm, chỉ có 9,7% có thời gian làm việc trên 20 năm.

Những năm gần đây, trình độ học vấn, chuyên môn của công nhân đã được nâng lên đáng kể. Trong GCCN đã hình thành một bộ phận công nhân trí thức, công nhân làm công tác quản lý sản xuất, kinh doanh, nghiên cứu và quản lý khoa học - kỹ thuật gắn với sản xuất, kinh doanh, có khả năng tiếp cận nhanh với khoa học - kỹ thuật và công nghệ hiện đại, thích ứng nhanh với sự năng động của cơ chế thị trư ờng. GCCN nước ta hiện đang có mặt trong tất cả các thành phần kinh tế, các ngành nghề; đang là lực lượng sản xuất cơ bản và là lực lượng vận hành, sử dụng những phương tiện, công cụ sản xuất hiện đại nhất của xã hội, có vai trò quan trọng quyết định phương hướng và tốc độ phát triển của nền kinh tế quốc dân theo định hướng XHCN. Hiện nay, mặc dù GCCN còn chiếm tỷ lệ thấp trong dân số và lực lượng lao động xã hội, nhưng hằng năm đã tạo ra khối lượng giá trị chiếm trên 70% tổng sản phẩm trong nước và đóng góp trên 65% thu ngân sách Nhà nước.

GCCN Việt Nam luôn giữ vững và phát huy bản chất cách mạng, truyền thống yêu nước, lao động cần cù, tính tiền phong và thực sự có khả năng sáng tạo trong lao động, sản xuất và trong các hoạt động của đời sống xã hội. Hàng vạn cán bộ khoa học - kỹ thuật, công nhân bậc cao, thợ giỏi đã thích ứng với cơ chế thị trường, tiếp cận nhanh với khoa học, công nghệ tiên tiến, hiện đại, có nhiều sáng chế, giải pháp hữu ích, có giá trị cao được áp dụng vào sản xuất và công tác.

Tuy nhiên, trình độ học vấn, chuyên môn, nghề nghiệp của công nhân nhìn chung còn thấp, chưa đáp ứng được yêu cầu đẩy mạnh CNH, HĐH và đang mất cân đối nghiêm trọng trong cơ cấu lao động kỹ thuật, giữa các bộ phận công nhân. Tình trạng thiếu nhiều chuyên gia kỹ thuật, cán bộ quản lý giỏi và công nhân có trình độ lành nghề cao, thừa lao động giản đơn đang diễn ra phổ biến ở tất cả các ngành, các cấp và các thành phần kinh tế. Do đặc điểm, tính chất hoạt động và điều kiện giáo dục, đào tạo, rèn luyện có sự phát triển mới đã tác động không nhỏ tới chất lượng đội ngũ công nhân. Đặc biệt, ý thức phấn đấu học tập nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, ý thức gắn bó lâu dài với nghề nghiệp của công nhân chưa cao. Lòng say mê nghề nghiệp, ý thức tổ chức kỷ luật, tác phong công nghiệp của công nhân còn hạn chế; ý thức chính trị, giác ngộ giai cấp cũng chưa cao. Hằng năm, số công nhân được đứng trong hàng ngũ của Đảng chỉ chiếm trên dưới 8% tổng số đảng viên mới kết nạp.

Thực trạng trên đặt ra yêu cầu khách quan và nhiệm vụ cấp bách phải đẩy mạnh xây dựng và phát huy vai trò GCCN Việt Nam. GCCN có lớn mạnh, thì Đảng, Nhà nước và cả hệ thống chính trị mới vững chắc. Sự lớn mạnh của GCCN Việt Nam sẽ là một đảm bảo quan trọng cho thành công của sự nghiệp CNH, HĐH và HNKTQT trong giai đoạn mới, vì mục tiêu “Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”. Nghị quyết Hội nghị lần thứ 6 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa X đã xác định: “Xây dựng GCCN nước ta lớn mạnh trong thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước là nhiệm vụ quan trọng và cấp bách của Đảng, Nhà nước, của cả hệ thống chính trị, của mỗi người công nhân và của toàn xã hội”1. Để xây dựng GCCN Việt Nam lớn mạnh, cần tập trung lãnh đạo, thực hiện tốt một số vấn đề chủ yếu sau:

Một là, nâng cao ý thức giác ngộ chính trị; tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, nâng cao hiệu quả quản lý của Nhà nước đối với GCCN.

Cần kiên định quan điểm: GCCN là giai cấp đại diện cho phương thức sản xuất tiên tiến, là giai cấp lãnh đạo cách mạng thông qua đội tiền phong là Đảng Cộng sản. Bởi vậy, nâng cao giác ngộ chính trị cho công nhân vừa là đòi hỏi bức thiết; đồng thời là việc làm thường xuyên. Đặc biệt, trong bối cảnh đẩy mạnh CNH, HĐH và HNKTQT ngày càng sâu, rộng, giao lưu quốc tế càng được mở rộng, đối tác ngày càng đa dạng và phức tạp, thì việc nâng cao ý thức giác ngộ chính trị cho GCCN trở thành vấn đề có tính cấp thiết, nhằm làm cho GCCN luôn là lực lượng cách mạng, giữ vững bản sắc văn hóa dân tộc. Muốn thế, cần đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục, đảm bảo tính thống nhất về nội dung và nhận thức từ trung ương xuống địa phương, cơ sở; từ tổ chức Đảng đến cơ quan Nhà nước, Công đoàn và các tổ chức chính trị, xã hội khác. Quá trình đó cần có nhiều lực lượng tham gia, phải bằng nhiều phương pháp và hình thức đa dạng; sử dụng tổng hợp các biện pháp chính trị, tư tưởng, kinh tế, pháp luật, hành chính sao cho phù hợp với từng đối tượng công nhân. Chú trọng xây dựng, hoàn thiện chính sách đầu tư thoả đáng cho các hoạt động tuyên truyền, giáo dục công nhân và có quy định chính sách ưu đãi thông qua hoạt động của các Nhà văn hoá Lao động, Câu lạc bộ Công nhân, hệ thống truyền thông đại chúng, các hoạt động văn hoá, thể thao, hoạt động của các tổ chức, đoàn thể - xã hội, nhằm xây dựng đời sống văn hoá, tinh thần cho công nhân. Thông qua đó, giáo dục, rèn luyện, xây dựng GCCN về ý thức công dân, lòng yêu nước, yêu CNXH, tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, nâng cao bản lĩnh chính trị, tinh thần cảnh giác cách mạng, nhận rõ đối tượng, đối tác để một mặt kiên quyết đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu “diễn biến hoà bình” của các thế lực thù địch; mặt khác, tăng cường hợp tác với bạn bè nhằm thực hiện thành công sự nghiệp CNH, HĐH và HNKTQT. Xây dựng cho công nhân có lối sống văn hoá, có tác phong công nghiệp và kỷ luật lao động; có lương tâm nghề nghiệp, có ý chí vươn lên, thoát khỏi nghèo nàn, lạc hậu, có quyết tâm chiến thắng trong cạnh tranh, làm giàu cho bản thân, gia đình và xã hội, góp phần xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc XHCN.

 Nhằm đổi mới, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với GCCN, các cấp uỷ phải tăng cường hơn nữa công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, không ngừng nâng cao năng lực lãnh đạo, trình độ lý luận và tư duy khoa học. Đảng phải thực sự vững vàng trước mọi diễn biến phức tạp của tình hình; luôn giữ vững và tăng cường bản chất GCCN; kiên định mục tiêu độc lập dân tộc gắn với CNXH, vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh vào tình hình thực tiễn của cách mạng Việt Nam trong giai đoạn mới. Đồng thời, các tổ chức Đảng cũng như mọi cán bộ, đảng viên phải kiên quyết đấu tranh chống những biểu hiện quan liêu, thoái hóa, biến chất, sa đọa về phẩm chất đạo đức, tham nhũng, thiếu tận tụy với nhân dân. Chú trọng xây dựng tổ chức Đảng trong các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế; quan tâm bồi dưỡng phát triển đảng trong công nhân, phấn đấu đến năm 2020 tất cả các doanh nghiệp có quy mô lớn đều thành lập được tổ chức cơ sở đảng. Chú ý hơn nữa công tác tuyển chọn, đào tạo, bồi dưỡng và sử dụng cán bộ xuất thân từ công nhân để từng bước tăng tỷ lệ công nhân trong bộ máy lãnh đạo các cấp của Đảng, chính quyền và đoàn thể.

Cùng với đó, phải chú ý xây dựng bộ máy Nhà nước trong sạch, vững mạnh, quan tâm hơn nữa lãnh đạo cải cách hành chính, để không ngừng nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý của Nhà nước, đảm bảo thực thi quyền lực của nhân dân, nhanh chóng biến mục tiêu, lý tưởng của GCCN, của cả dân tộc thành hiện thực.

Hai là, đẩy mạnh và nâng cao chất lượng công tác đào tạo, đào tạo lại đội ngũ công nhân.

Đào tạo, đào tạo lại đội ngũ công nhân đáp ứng yêu cầu thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH và HNKTQT là vấn đề bức thiết hiện nay. Cần tăng cường đầu tư các nguồn lực để đào tạo, đào tạo lại đội ngũ công nhân, đảm bảo đủ về số lượng, đáp ứng về chất lượng, đồng bộ về cơ cấu, có trình độ chuyên môn vững, nghiệp vụ chắc, tay nghề giỏi, sáng tạo trong lao động, sản xuất, có đủ khả năng làm chủ được công nghệ tiên tiến và thích ứng nhanh với sự năng động của cơ chế thị trường. Tăng cường quản lý nhà nước, đầu tư cơ sở vật chất, kinh phí cho công tác đào tạo nghề. Tiến hành quy hoạch mạng lưới các trường, các cơ sở dạy nghề, xây dựng trường chuẩn, chương trình chuẩn, để đào tạo công nhân có trình độ cao cho một số ngành kinh tế mũi nhọn; chú trọng gắn kết giữa đào tạo và sử dụng, nhằm đáp ứng yêu cầu nguồn lao động, đảm bảo chất lượng cho phát triển kinh tế và để hạn chế những lãng phí ngay trong công tác đào tạo. Hoàn thiện chính sách đào tạo, đào tạo lại công nhân, chính sách khuyến khích, tạo điều kiện cho công nhân tự học tập nâng cao trình độ học vấn, chuyên môn, nghiệp vụ, ngoại ngữ và chính sách đãi ngộ hấp dẫn đối với công nhân có sáng kiến hay, có kinh nghiệm tốt, nhằm khích lệ đội ngũ công nhân phát huy tài năng, trí tuệ trong sản xuất, kinh doanh. Đặc biệt, cần áp dụng chế độ bắt buộc công nhân phải qua đào tạo đối với các ngành kinh tế trọng điểm đòi hỏi trình độ kỹ thuật và công nghệ cao.

Cùng với công tác đào tạo của Nhà nước, cần đẩy mạnh đào tạo tại chỗ, tại chức. Có chính sách khuyến khích các doanh nghiệp đầu tư phát triển công nghệ tiên tiến, ứng dụng tiến bộ khoa học, công nghệ mới vào sản xuất một cách đồng bộ, phấn đấu giảm tình trạng lao động thủ công ở tất cả các ngành, nhất là các ngành đòi hỏi công nghệ cao để tạo môi trường, điều kiện nâng cao trình độ chuyên môn, nghề nghiệp cho công nhân.

Vận động công nhân nâng cao tinh thần nỗ lực khắc phục khó khăn, phấn đấu học tập, nâng cao trình độ mọi mặt. Có cơ chế động viên, khuyến khích, phát huy vai trò, khả năng của các ngành, các cấp, các tổ chức quần chúng trong việc đóng góp sức lực, trí tuệ, cơ sở vật chất và tạo điều kiện cho công nhân được học tập nâng cao trình độ chuyên môn, nghề nghiệp. 

Xúc tiến thành lập “Quỹ đào tạo công nhân” của các ngành, các địa phương, các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế. Nguồn quỹ này được thành lập trên cơ sở trích từ lợi nhuận, từ tỷ lệ giá trị đầu tư mới của doanh nghiệp, từ sự hỗ trợ một phần của Nhà nước, địa phương và các nguồn khác. Đồng thời, quy định chặt chẽ chính sách quản lý, sử dụng hợp lý các nguồn quỹ.

Ba là, đổi mới từng bước, tiến tới đổi mới toàn diện hệ thống chính sách, pháp luật nhằm nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho công nhân.

Tập trung lãnh đạo việc xây dựng hoàn thiện chính sách đầu tư đẩy mạnh phát triển sản xuất, giải quyết việc làm, đảm bảo việc làm ổn định và lợi ích của công nhân. Cần tiến hành rà soát lại tất cả các cơ chế, chính sách, để từng bước xóa bỏ những cơ chế, chính sách đã và đang kìm hãm tính tích cực, chủ động, sáng tạo của người lao động. Khuyến khích người có vốn, có kỹ thuật - công nghệ, có trình độ quản lý... đầu tư vào sản xuất, kinh doanh, tạo ra ngày càng nhiều việc làm mới, thu hút đông đảo lao động xã hội vào làm việc, phát huy tối đa các tiềm năng lao động và tạo điều kiện để GCCN phát triển nhanh về số lượng, nâng cao về chất lượng.

Tiếp tục hoàn thiện chính sách tiền lương, đặc biệt là công tác tổ chức tiền lương, xây dựng thang bảng lương, xây dựng định mức lao động trong các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế, nhằm thực hiện nguyên tắc phân phối theo lao động và phân phối theo sự đóng góp của mỗi người. Nghiên cứu quy định chính sách ưu đãi những công nhân bậc cao, những người có tài năng thực sự, tạo động lực khuyến khích công nhân cống hiến năng lực, trí tuệ cho sự nghiệp CNH, HĐH và HNKTQT.

Tổ chức thực hiện nghiêm Luật Lao động, Luật Bảo hiểm xã hội và các chế độ, chính sách về bảo hiểm thất nghiệp, bảo hiểm y tế...; đồng thời nâng cao chất lượng công tác khám, chữa bệnh của các cơ sở y tế ngành nghề.

Xây dựng, hoàn thiện chính sách nhà ở và chính sách khuyến khích đẩy mạnh đầu tư phát triển nhà ở cho công nhân, lao động. Có chính sách hỗ trợ về nhà ở cho những gia đình công nhân nghèo, đảm bảo mọi công nhân có nơi ở ổn định, an toàn, góp phần tái tạo sức lao động; xây dựng môi trường sống lành mạnh và đời sống văn hoá trong công nhân. Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát việc thực hiện chính sách, pháp luật; kiên quyết xử lý nghiêm những vi phạm chính sách, pháp luật, nhất là chính sách, pháp luật liên quan đến quyền, lợi ích của công nhân.

Bốn là, đẩy mạnh và nâng cao chất lượng hoạt động của tổ chức Công đoàn, góp phần tích cực vào việc xây dựng GCCN vững mạnh.

Công đoàn phải đổi mới mạnh mẽ tổ chức và hoạt động, kiên quyết khắc phục những hình thức hoạt động xơ cứng và hiện tượng “hành chính hóa”, “nhà nước hóa” trong tổ chức, hoạt động. Công đoàn phải hướng về cơ sở, lấy cơ sở làm địa bàn công tác chủ yếu; lấy công nhân, viên chức, lao động làm đối tượng vận động, tập hợp; lấy chăm lo bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của công nhân, viên chức lao động thúc đẩy phát triển kinh tế, xã hội làm mục tiêu hoạt động.

Đa dạng hóa các hình thức vận động, tập hợp quần chúng, để thu hút, động viên được ngày càng đông đảo công nhân trong các thành phần kinh tế vào Công đoàn và tự giác tham gia hoạt động Công đoàn.

Đẩy mạnh đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, kỹ năng hoạt động cho cán bộ Công đoàn, xây dựng đội ngũ cán bộ Công đoàn có năng lực, trình độ, có phẩm chất, đạo đức và bản lĩnh, nhiệt tình và tâm huyết với hoạt động Công đoàn, nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động, góp phần xây dựng GCCN Việt Nam vững mạnh, đủ sức thực hiện thắng lợi sứ mệnh lịch sử của mình trong giai đoạn mới.

TS. Đặng Ngọc Tùng

Ủy viên BCHTƯ Đảng

Chủ tịch Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam

                        

1 - Báo Nhân dân - số 19176, ngày 19-2- 2008, tr. 1

 

Ý kiến bạn đọc (0)