QPTD -Thứ Năm, 24/11/2011, 00:23 (GMT+7)
Xây dựng giai cấp công nhân Việt Nam đáp ứng yêu cầu thời kỳ hội nhập kinh tế quốc tế
Giai cấp công nhân (GCCN) Việt Nam đã trải qua nhiều thời kỳ biến đổi và phát triển. Từ ngày Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, GCCN Việt Nam trở thành giai cấp lãnh đạo cách mạng, phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc, đưa sự nghiệp đấu tranh giành độc lập, tự do cho Tổ quốc đến thắng lợi hoàn toàn; và ngày nay đang giành được nhiều thành tựu quan trọng trong sự nghiệp đổi mới vì mục tiêu dân giầu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Cùng với quá trình đi lên của đất nước, GCCN Việt Nam đã có sự phát triển mạnh mẽ cả về số lượng, chất lượng và cơ cấu.

Hiện nay, đội ngũ công nhân, viên chức và lao động trong các loại hình doanh nghiệp và cơ sở kinh tế ở nước ta có khoảng 11,3 triệu người, chiếm 13,5% dân số và 26,4% lực lượng lao động xã hội. Nhìn chung, tuổi đời của công nhân, lao động (CNLĐ) tương đối trẻ: từ 18 đến 30 chiếm 36,4%; còn trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, tuổi dưới 25 chiếm tới 43,2%. Trình độ học vấn, chuyên môn nghề nghiệp của CNLĐ những năm gần đây được nâng lên đáng kể (năm 1985, trình độ trung học phổ thông là 43%; hiện nay là 69,3%);... tỷ lệ công nhân được đào tạo nghề cũng tăng lên. GCCN Việt Nam có mặt trong tất cả các thành phần kinh tế, các ngành nghề và là một lực lượng sản xuất cơ bản, chủ yếu; có vai trò đặc biệt quan trọng đối với nền kinh tế quốc dân. GCCN Việt Nam luôn giữ vững bản chất cách mạng, truyền thống lao động cần cù, sáng tạo, khắc phục khó khăn, đưa sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa (CNH, HĐH) đất nước đi lên. Đa số họ là những người có khả năng thích ứng với cơ chế mới, tiếp cận nhanh khoa học, công nghệ hiện đại; năng động, sáng tạo, có nhiều sáng kiến cải tiến kỹ thuật mang lại giá trị kinh tế cao. Trong công cuộc đổi mới, CNLĐ nước ta đã đề xuất nhiều vấn đề quan trọng, để trên cơ sở đó Đảng, Nhà nước có các chủ trương, biện pháp lãnh đạo, chỉ đạo phát triển sản xuất, giữ vững ổn định chính trị, xã hội của đất nước. Có thể khẳng định rằng, GCCN Việt Nam luôn luôn là chỗ dựa vững chắc của Đảng, Nhà nước, chế độ XHCN; là lực lượng nòng cốt trong khối liên minh công – nông – trí, nền tảng của khối đại đoàn kết toàn dân tộc; vừa là lực lượng tích cực, đi đầu trong công cuộc đổi mới, vừa là lực lượng kiên quyết trên mặt trận đấu tranh chống tiêu cực, tham nhũng, lãng phí, đặc quyền, đặc lợi và các hiện tượng tiêu cực khác. GCCN Việt Nam cũng là lực lượng tiêu biểu cho truyền thống yêu nước, tinh thần đoàn kết quốc tế với GCCN, nhân dân lao động trên toàn thế giới.

Bên cạnh đó, GCCN Việt Nam còn bộc lộ nhiều hạn chế. Trình độ văn hóa, chuyên môn, khả năng nghề nghiệp, kiến thức quản lý kinh tế chưa đáp ứng với yêu cầu của đất nước thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH và hội nhập kinh tế quốc tế (HNKTQT). Sự mất cân đối trong cơ cấu lao động - kỹ thuật đang diễn ra phổ biến; biểu hiện rõ nhất là tình trạng thừa lao động giản đơn, thiếu lao động có trình độ chuyên môn cao. Điều đáng báo động là, ý thức học tập nâng cao trình độ chuyên môn, nghề nghiệp của cả công nhân và cán bộ khoa học-kỹ thuật nước ta nhìn chung không cao; CNLĐ chưa ý thức đầy đủ yêu cầu của cạnh tranh quốc tế để có giải pháp tích cực, chủ động hội nhập; lòng say mê nghề nghiệp, ý thức tổ chức, kỷ luật, tác phong công nghiệp, vai trò làm chủ còn hạn chế...
Hiện nay, chúng ta thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược (xây dựng và bảo vệ Tổ quốc) trong bối cảnh toàn cầu hóa kinh tế ngày càng diễn ra sâu rộng; khoa học-kỹ thuật phát triển mạnh mẽ và trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp; nước ta đã là một thành viên của WTO;... Điều đó tác động mạnh đến quá trình chuyển dịch cơ cấu GCCN trong các ngành nghề và khu vực kinh tế. Cùng với đó, cơ chế thị trường và sự cạnh tranh giữa trong với ngoài nước diễn ra ngày càng gay gắt; sự tác động của kinh tế thị trường đang tạo nên tính đa dạng trong cơ cấu kinh tế và phức tạp trong cơ cấu GCCN. Sự phân hóa giầu nghèo trong GCCN cũng diễn ra ngày một sâu sắc; quan hệ lao động cũng đang có những diễn biến phức tạp; một số chính sách liên quan đến quyền lợi của CNLĐ còn bị vi phạm, nhưng chưa được kiểm tra thường xuyên và có biện pháp xử lý nghiêm khắc, kịp thời...
Ngày nay, tiếp tục chăm lo xây dựng, phát huy vai trò của GCCN Việt Nam, phù hợp với tiến trình đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước và HNKTQT là vấn đề sống còn của cách mạng, của chế độ XHCN ở nước ta. Cần nhận thức đúng rằng, đầu tư xây dựng GCCN là đầu tư chiến lược, đầu tư trực tiếp cho phát triển, để củng cố và tăng cường hơn nữa vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với toàn xã hội.
Trước hết, cần quán triệt sâu sắc quan điểm coi xây dựng GCCN là nhiệm vụ tất yếu, mang tính chiến lược; gắn liền với xây dựng, củng cố hệ thống chính trị của dân, do dân, vì dân; với thực hiện các mục tiêu kinh tế-xã hội, quốc phòng-an ninh, đối ngoại và với từng bước đi của quá trình CNH, HĐH đất nước. Xây dựng, phát huy vai trò của GCCN phải được thực hiện thông qua đường lối của Đảng; được thể chế bằng hệ thống pháp luật, cơ chế, chính sách đồng bộ của Nhà nước; bằng các biện pháp kinh tế, chính trị, tư tưởng và tổ chức. Trước mắt, Đảng cần tập trung lãnh đạo, sớm hoạch định chiến lược quốc gia về xây dựng, phát triển GCCN hiện đại, làm cơ sở để Nhà nước ban hành các văn bản luật pháp, xây dựng các cơ chế, chính sách phù hợp, tạo hành lang pháp lý cho việc triển khai thực hiện. Vấn đề có ý nghĩa then chốt hiện nay là, phải không ngừng tăng cường bản chất GCCN của Đảng, thường xuyên củng cố sự đoàn kết, thống nhất trong Đảng; làm cho Đảng ta có sự phát triển vượt bậc về trí tuệ, năng lực, có trình độ lý luận, tư duy khoa học và bản lĩnh chính trị cao, ngang tầm với yêu cầu, nhiệm vụ trong tình hình mới.
Hai là, đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục nâng cao ý thức chính trị, trình độ giác ngộ giai cấp, bồi dưỡng tinh thần yêu nước, ý chí tự lực, tự cường cho GCCN. Nội dung tuyên truyền, giáo dục cần tập trung làm cho GCCN nắm vững thực chất khoa học, cách mạng của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh; nâng cao nhận thức về đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; nâng cao kiến thức văn hóa và tạo điều kiện, cơ hội cho CNLĐ tham gia các hoạt động văn hóa-xã hội; tổ chức tốt đời sống vật chất và tinh thần, tạo động lực để CNLĐ nỗ lực phấn đấu vươn lên. Cùng với quá trình đó, cần tăng cường tuyên truyền, giáo dục nhằm tạo sự chuyển biến nhận thức của toàn xã hội đối với yêu cầu CNH, HĐH đất nước trong bối cảnh HNKTQT gắn với việc nâng cao trình độ, chuyên môn, nghiệp vụ của GCCN. Qua đó nâng cao giá trị và địa vị của CNLĐ, nhất là CNLĐ có trình độ cao; tạo điều kiện để phát huy tiềm năng trí tuệ, bảo đảm việc làm, nâng cao thu nhập, cải thiện cuộc sống, xây dựng các giá trị văn hóa lao động mới, từng bước hình thành phong cách lao động công nghiệp cho GCCN. Trong quá trình triển khai công tác này, cần hết sức coi trọng xây dựng nội dung, hình thức tuyên truyền, giáo dục phong phú, sinh động, phù hợp với từng đối tượng trong từng thành phần kinh tế, từng loại hình sản xuất, kinh doanh.
Ba là, coi trọng đổi mới, nâng cao chất lượng công tác đào tạo CNLĐ, xây dựng đội ngũ CNLĐ có trình độ tri thức, tay nghề cao, đáp ứng ngày càng tốt hơn yêu cầu phát triển nguồn nhân lực có chất lượng phù hợp với tiến trình đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước và HNKTQT. Kết hợp bồi dưỡng, rèn luyện tay nghề với nâng cao nhận thức cho đội ngũ CNLĐ về những vấn đề mới của kinh tế thị trường và HNKTQT như: cạnh tranh, thị trường lao động, thị trường công nghệ, Luật Sở hữu trí tuệ, Luật Lao động, phá sản, bảo hiểm xã hội,v.v. Cần phát huy tinh thần trách nhiệm của cả hệ thống chính trị và toàn xã hội trong việc đào tạo nguồn nhân lực cho sự nghiệp CNH, HĐH; đẩy mạnh xã hội hóa, đa dạng hóa các loại hình đào tạo CNLĐ, kết hợp đào tạo tập trung với không tập trung, đào tạo chính quy với vừa học vừa làm, đào tạo tại các nhà trường, trung tâm đào tạo với đào tạo trong các doanh nghiệp; đào tạo cơ bản với đào tạo lại;... một cách phù hợp, hiệu quả, thích ứng với khả năng, điều kiện học tập của CNLĐ.
Bốn là, thường xuyên quan tâm xây dựng hệ thống chính sách bảo đảm xã hội và chính sách khuyến khích xã hội đối với CNLĐ.  Cần thấy rằng, chính sách xã hội là đòn bẩy quan trọng của tính tích cực xã hội. Do đó, cần rà soát để xóa bỏ những cơ chế đã và đang kìm hãm tính tích cực, chủ động, sáng tạo của CNLĐ; đồng thời, tạo lập cơ chế mới, đảm bảo giải phóng người lao động về mọi mặt, tạo điều kiện để CNLĐ phát huy khả năng của mình trong lao động, học tập và cống hiến. Chính sách xã hội trong điều kiện mới cần phải coi trọng đáp ứng các điều kiện thiết yếu cho hoạt động của người lao động nói chung, cho GCCN nói riêng; đồng thời, phải thể hiện sự quan tâm đến nguyện vọng chính đáng của CNLĐ là được trả công tương xứng với sức lao động mà họ đã bỏ ra; được chăm lo đến điều kiện lao động, điều kiện sống, việc làm ổn định, kể cả sự công bằng xã hội. Trước mắt, cần tiếp tục hoàn thiện chính sách tiền lương và công tác tổ chức tiền lương trong các loại hình doanh nghiệp, thuộc các thành phần kinh tế, nhằm đảm bảo giá trị tiền lương thực tế và đời sống cho CNLĐ; thực hiện tốt nguyên tắc phân phối theo lao động, hạn chế tối đa sự chênh lệch quá cao về thu nhập của CNLĐ giữa các ngành nghề, các thành phần kinh tế và giữa các bộ phận công nhân ngay trong cùng một doanh nghiệp. Cần có quy định ưu đãi với công nhân lành nghề, thợ bậc cao, để khuyến khích đội  ngũ CNLĐ tích cực phấn đấu vươn lên. Nhanh chóng hoàn thiện chính sách khuyến khích đầu tư phát triển nhà ở cho CNLĐ; có chính sách cụ thể hỗ trợ về nhà ở cho những gia đình CNLĐ nghèo. Tăng cường kiểm tra, giám sát việc thực hiện Luật Lao động, bảo hộ lao động; xử lý nghiêm những vi phạm quyền lợi đối với người lao động. Chú trọng chăm lo, cải thiện điều kiện lao động; phòng, chống có hiệu quả tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp; xây dựng và tổ chức thực hiện tốt chính sách chăm sóc sức khỏe công nhân, nhất là với công nhân nữ, công nhân làm việc nặng nhọc, độc hại. Không ngừng phát triển, nâng cao chất lượng khám và chữa bệnh của các cơ sở y tế ngành nghề.
Cùng với chính sách bảo đảm xã hội, Nhà nước cần hết sức quan tâm thực hiện tốt chính sách khuyến khích xã hội đối với CNLĐ, bao gồm chính sách thi đua - khen thưởng, tôn vinh các cá nhân, tập thể xuất sắc, có nhiều cống hiến, nhất là những người trực tiếp lao động; có cơ chế động viên kịp thời, phù hợp với những CNLĐ thực sự có tài, có sáng kiến, phát minh, sáng chế. Đảng, Nhà nước cần lãnh đạo và chỉ đạo các ngành, các cấp kết hợp chặt chẽ, hài hòa chính sách đảm bảo xã hội với chính sách khuyến khích xã hội, tạo động lực mạnh mẽ, kích thích mọi cá nhân, tập thể CNLĐ trong các thành phần kinh tế, các ngành nghề cùng thi đua học tập, lao động.
Năm là, tích cực đổi mới nội dung, phương thức hoạt động của tổ chức Công đoàn trong GCCN, bảo đảm để Công đoàn ngày càng thu hút đông đảo CNLĐ tham gia với tinh thần tự giác, tích cực, ý thức làm chủ cao. Hoạt động của Công đoàn cần đổi mới theo hướng đa dạng hóa các hình thức tập hợp quần chúng; hướng mạnh về cơ sở; lấy cơ sở làm địa bàn hoạt động; lấy công nhân, viên chức, lao động làm đối tượng vận động; lấy chăm lo bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của công nhân, viên chức, lao động và xây dựng quan hệ lao động hài hòa, ổn định, xây dựng GCCN lớn mạnh, góp phần thúc đẩy sản xuất, kinh doanh phát triển làm mục tiêu hoạt động.
Để làm được điều đó, cần tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với tổ chức Công đoàn. Từng cấp ủy Đảng phải có trách nhiệm định hướng cho hoạt động của Công đoàn ở cấp mình, ngành mình, bảo đảm mọi hoạt động của Công đoàn phù hợp với chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách và pháp luật Nhà nước, góp phần quan trọng vào việc củng cố, tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc, đưa sự nghiệp đổi mới đất nước không ngừng phát triển. Cần tập trung nghiên cứu, đề ra những chủ trương, biện pháp đẩy mạnh công tác phát triển Đảng trong tất cả các thành phần kinh tế. Công tác cán bộ của Đảng cần ưu tiên tuyển chọn, bồi dưỡng, sử dụng những cán bộ trẻ, có năng lực, phẩm chất tốt, xuất thân từ CNLĐ vào các cương vị lãnh đạo, chủ trì các cấp. Tăng cường công tác kiểm tra và xử lý nghiêm những vi phạm trong thực hiện đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước; phát huy vai trò của GCCN và tổ chức Công đoàn trong tình hình mới. Bản thân tổ chức Công đoàn ở từng cấp phải đổi mới mạnh mẽ hơn nội dung, phương thức hoạt động; kiên quyết khắc phục tình trạng xơ cứng, trì trệ và hiện tượng “hành chính hóa” trong tổ chức hoạt động của mình. Đồng thời, đa dạng hóa các hình thức tập hợp quần chúng, để thu hút đông đảo CNLĐ tham gia Công đoàn và hoạt động tích cực, có hiệu quả. Các cấp ủy Đảng phải tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo để Công đoàn thực hiện tốt chức trách, nhiệm vụ của mình trong mối quan hệ với các cơ quan, tổ chức hữu quan; thường xuyên tiếp xúc, lắng nghe ý kiến của Công đoàn và công nhân, viên chức, lao động, tạo điều kiện để tổ chức Công đoàn được góp tiếng nói xứng đáng của mình vào việc hoạch định đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước và trong quản lý Nhà nước, xã hội.
Cần tăng cường chỉ đạo kiểm tra các cấp, các ngành và các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế trong việc triển khai thực hiện các chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước đối với GCCN. Nhà nước cần chú trọng phối hợp chặt chẽ với Tổng liên đoàn Lao động Việt Nam, triển khai có hiệu quả các chương trình hoạt động và tạo điều kiện thuận lợi về kinh phí để Công đoàn hoạt động, góp phần xây dựng GCCN Việt Nam không ngừng lớn mạnh.
Đặng Ngọc Tùng
Ủy viên BCHTƯ Đảng
Chủ tịch Tổng Liên đoàn lao động Việt Nam
 
Ý kiến bạn đọc (0)