QPTD -Thứ Tư, 07/12/2011, 23:23 (GMT+7)
Xây dựng đội ngũ cán bộ cấp chiến lược - một nhiệm vụ hết sức quan trọng của Đảng ta

Những thành tựu to lớn có ý nghĩa lịch sử qua 20 năm đổi mới là kết quả tổng hợp của sự nỗ lực phấn đấu không mệt mỏi, đầy sáng tạo của toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ta, trong đó, nhân tố có ý nghĩa quan trọng hàng đầu là cán bộ. Nghị quyết Trung ương 3 (khoá VIII) về chiến lược cán bộ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa (CNH, HĐH) đất nước đã chỉ rõ: “Cán bộ có ý nghĩa quan trọng đến vận mệnh của Đảng, của đất nước, là nhân tố quyết định sự thành bại của cách mạng, là khâu then chốt trong công tác xây dựng Đảng”. Trong xây dựng đội ngũ cán bộ, phải đặc biệt chú trọng xây dựng đội ngũ cán bộ cấp chiến lược, trước hết là những người đứng đầu thực sự vững vàng, có đủ bản lĩnh để giải quyết những tình huống phức tạp có quan hệ đến sự phát triển của đất nước, sự sống còn của chế độ. Thực tế cho thấy, trong bất kỳ hoàn cảnh nào, nhất là vào những thời điểm có tính chất bước ngoặt, vận nước đặt tất cả vào đội ngũ cán bộ cấp chiến lược.

Nhận thức rõ điều đó, trong 20 năm đổi mới vừa qua, Đảng ta đã có nhiều chủ trương, biện pháp, chính sách phù hợp, tạo điều kiện để đội ngũ cán bộ chiến lược của Đảng ngày càng phát triển cả về số lượng, chất lượng và cơ cấu đội ngũ.
Về độ tuổi, đã có sự kế tiếp 3 độ tuổi trong cơ cấu đội ngũ cán bộ chiến lược. Qua những năm đổi mới đã, đang xuất hiện nhiều cán bộ trẻ được đào tạo cơ bản, năng động, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm. Về giới tính, ngày càng có nhiều hơn cán bộ nữ tham gia trong các cấp uỷ Đảng và ở tất cả các vị trí lãnh đạo từ Trung ương đến cơ sở. Về cơ cấu dân tộc, đến nay việc xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý là người dân tộc thiểu số đã đạt được nhiều kết quả quan trọng cả về số lượng và chất lượng; nhiều cán bộ là người dân tộc thiểu số được tín nhiệm bầu vào những cương vị trọng yếu trong các cơ quan Đảng, chính quyền, đoàn thể từ Trung ương đến địa phương. Trình độ đào tạo của đội ngũ cán bộ chiến lược ngày càng cao. Nếu khóa IX có 138/150 (92%) số Uỷ viên Trung ương Đảng có trình độ đại học trở lên, thì đến khóa X là 174/181 (96,13%). Cán bộ chiến lược có trình độ lý luận chính trị (LLCT) từ trung cấp đến cao cấp ngày càng tăng. Đơn cử, nếu khóa VIII, số uỷ viên Trung ương có trình độ LLCT cao cấp chiếm 88,23%, thì đến đầu Đại hội X là 97,23%. Nhiệm kỳ 2005 - 2010, số Uỷ viên Ban chấp hành tỉnh (thành) ủy có trình độ LLCT sơ cấp chỉ còn 0,19%, trung cấp 1,96% (giảm 9,08% so với nhiệm kỳ trước); trình độ cao cấp, cử nhân chính trị chiếm 97,72% (tăng 10,96% so với nhiệm kỳ trước). Cán bộ chiến lược được đào tạo cơ bản về quản lý kinh tế, quản lý nhà nước trên các lĩnh vực cũng không ngừng tăng lên,v.v. Kết quả công tác đào tạo đã góp phần quan trọng xây dựng đội ngũ cán bộ cấp chiến lược của Đảng trưởng thành về mọi mặt; đặc biệt năng lực lãnh đạo, điều hành, quản lý đối với bộ máy Đảng, chính quyền và đoàn thể các cấp không ngừng được nâng lên, thiết thực góp phần nâng cao hiệu quả thực hiện các mục tiêu đề ra của sự nghiệp đổi mới. 
Về phẩm chất, tuyệt đại đa số cán bộ chiến lược có bản lĩnh chính trị vững vàng, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và CNXH. Số đông vẫn giữ đơược đạo đức, phẩm chất cách mạng, lối sống lành mạnh, giản dị, gắn bó với nhân dân; nhất trí, tin tưởng, quyết tâm thực hiện công cuộc đổi mới của Đảng, có đóng góp lớn cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Không ít đồng chí trên các lĩnh vực công tác, hoạt động đã thể hiện là tấm gương mẫu mực về nhân cách, đạo đức, lối sống; chủ động vượt lên trên những khó khăn khách quan và chủ quan để hoàn thành nhiệm vụ; kiên quyết đấu tranh chống tiêu cực trong xã hội, trong cơ quan, địa phương, đơn vị, nhất là hiện tượng tham nhũng, quan liêu và những tác động tiêu cực khác từ mặt trái của kinh tế thị trường.
Song, bên cạnh ưu điểm là cơ bản, một bộ phận cán bộ chiến lược vẫn chưa đáp ứng với yêu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền, phát triển kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế. Tuổi trung bình của cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp tỉnh, thành phố vẫn cao, chưa có bước đột phá. Tỷ lệ cán bộ nữ trong các cấp uỷ Đảng có tăng, nhưng không bền vững. ủy viên Ban Chấp hành đảng bộ tỉnh, thành phố là người dân tộc thiểu số đang có xu hướng giảm. Trình độ ngoại ngữ, tin học của cán bộ nhìn chung còn hạn chế; trình độ chuyên môn, nghiệp vụ của cán bộ không đồng đều giữa các vùng, các địa phương. Kéo theo đó, năng lực lãnh đạo, điều hành, quản lý của đội ngũ cán bộ chiến lược có một số mặt chưa đáp ứng những yêu cầu ngày càng cao của sự nghiệp đổi mới. ở một số nơi, cán bộ còn lúng túng trong triển khai các nghị quyết, chỉ thị của Đảng, thiếu tính khoa học trong xây dựng kế hoạch, tổ chức, điều hành hoạt động của chính quyền, đoàn thể, dẫn đến nhiều vụ việc phức tạp xảy ra trên địa phơương nhưng chưa được xử lý kịp thời, dứt điểm, thậm chí có biểu hiện né tránh hoặc đùn đẩy trách nhiệm. Một bộ phận cán bộ, phương pháp tổ chức còn nặng về ý chí chủ quan cá nhân, chưa nhạy bén phát hiện vấn đề; khả năng nói, viết, đấu tranh bảo vệ quan điểm, đường lối, thuyết phục quần chúng chơưa sắc bén, thiếu chủ động; trình độ và năng lực quản lý kinh tế – xã hội còn hạn chế; thiếu kiến thức, kinh nghiệm về kinh tế thị trường, về quản lý nhà nước trên các lĩnh vực; hiểu biết chưa nhiều về pháp luật, ngoại ngữ, tin học, kỹ năng hành chính cũng nhươ tri thức khoa học kỹ thuật, công nghệ hiện đại...
Đáng chú ý, trước những tác động tiêu cực bởi mặt trái của kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế, một bộ phận cán bộ chiến lược có biểu hiện thiếu bản lĩnh chính trị, chạy theo danh lợi cá nhân, sa ngã về đạo đức, lối sống. Báo cáo của Ban Chấp hành ơơơTrung ương Đảng khóa IX về Kết quả thực hiện Nghị quyết Trung ương 6 (lần 2), khoá VIII tại Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng đã nhấn mạnh: “... Tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, về phẩm chất đạo đức, lối sống, tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí, sách nhiễu của một bộ phận cán bộ, công chức, đảng viên diễn ra nghiêm trọng làm cho nhân dân bất bình, lo lắng và giảm lòng tin đối với Đảng, Nhà nước, là nhân tố kìm hãm bước tiến của công cuộc đổi mới và vẫn là nguy cơ đe doạ sự tồn vong của Đảng và chế độ ta”.
Thực tiễn công cuộc đổi mới, đẩy mạnh CNH, HĐH và yêu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền, phát triển kinh tế thị trường, hội nhập quốc tế ngày nay đã và đang đặt ra những yêu cầu mới ngày càng cao, đòi hỏi đội ngũ cán bộ lãnh đạo chủ chốt các cấp phải thực sự là những người vừa có phẩm chất chính trị, đạo đức trong sáng, mẫu mực, vừa có năng lực lãnh đạo, quản lý giỏi. Trước những yêu cầu mới của tình hình, nhiệm vụ cách mạng, Đảng ta nhấn mạnh yêu cầu “... xây dựng đội ngũ cán bộ, đặc biệt là cán bộ cấp chiến lược, người đứng đầu các cơ quan, đơn vị, thật sự vì Đảng, vì dân, có bản lĩnh và trí tuệ, đi đầu trong công tác và gương mẫu trong đạo đức, lối sống, bảo đảm tính kế thừa và phát triển; xây dựng và thực hiện chính sách phát triển nhân tài đáp ứng yêu cầu đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước”1. Trong đó, yêu cầu về năng lực tổ chức thực tiễn và khả năng đoàn kết, quy tụ cán bộ; lối sống trong sạch, không tham nhũng; gương mẫu, không lạm dụng chức quyền để mưu cầu lợi ích riêng cho cá nhân và gia đình là những vấn đề được quan tâm hàng đầu. Nhìn chung, cán bộ lãnh đạo chiến lược của Đảng phải đảm bảo theo ba nhóm tiêu chuẩn:
Về phẩm chất chính trị, phải có bản lĩnh chính trị vững vàng, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và CNXH, chủ nghĩa Mác – Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối đổi mới của Đảng; có sự nhạy bén, sắc sảo về chính trị; tích cực đấu tranh bảo vệ quan điểm, đường lối của Đảng, phê phán những biểu hiện của chủ nghĩa cơ hội, hữu khuynh; cảnh giác cao trước những luận điệu tuyên truyền của các thế lực phản động, thù địch.
Về phẩm chất đạo đức, phải sống “cần, kiệm, liêm, chính”, “chí công vô tư”; tận tuỵ với công việc chung, là tấm gương cho đảng viên và quần chúng; tiên phong, gương mẫu trong cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí; bản thân không tham nhũng và kiên quyết đấu tranh chống tham nhũng, không để người thân trong gia đình lợi dụng chức quyền của mình để mưu cầu lợi ích riêng.
Về phẩm chất trí tuệ, năng lực trí tuệ và năng lực hành động, cán bộ chiến lược phải có tầm tư duy sâu sắc, năng động, sáng tạo; có năng lực thực tiễn giỏi, năng lực đề xuất những chủ trương, biện pháp lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện nhiệm vụ trong phạm vi chức trách sát với thực tiễn, có hiệu quả cao. Phải quyết liệt trong hành động, dám đương đầu với khó khăn, thử thách, quyết đoán và dám chịu trách nhiệm; có khả năng đoàn kết, quy tụ đội ngũ cán bộ, chấp hành nghiêm nguyên tắc tập trung dân chủ; năng lực hành động phải được thể hiện thông qua việc làm, hiệu quả công tác và kết quả công việc cụ thể; có đủ sức khoẻ để hoàn thành nhiệm vụ.
Để xây dựng đội ngũ cán bộ chiến lược của Đảng đáp ứng ngày càng tốt hơn yêu cầu nhiệm vụ cách mạng cả trước mắt và lâu dài, cần tăng cường hơn nữa sự lãnh đạo của các cấp ủy Đảng đối với công tác cán bộ; trên cơ sở đó tiếp tục đổi mới một cách mạnh mẽ, đồng bộ, tạo sự chuyển biến cơ bản, vững chắc cả trong tư duy, nội dung và hình thức tiến hành công tác cán bộ của Đảng.
Trước hết, chú trọng tăng cường công tác tư tưởng, rèn luyện phẩm chất, đạo đức cách mạng cho đội ngũ cán bộ, đảng viên các cấp. Cùng với yêu cầu đẩy mạnh giáo dục chủ nghĩa Mác – Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, tuyên truyền sâu rộng đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật Nhà nước, cần coi trọng đúng mức bồi đắp lòng yêu nước XHCN, yêu nhân dân, lý tưởng độc lập dân tộc và CNXH, ý thức thực hành dân chủ rộng rãi, tinh thần tự phê bình và phê bình thẳng thắn, trung thực cho đội ngũ cán bộ; đấu tranh kiên quyết với những nhận thức, quan điểm sai trái, lệch lạc, khắc phục những biểu hiện phai nhạt lý tưởng, cơ hội chủ nghĩa. Tiếp tục giáo dục, rèn luyện đạo đức cách mạng, chống chủ nghĩa cá nhân; đề cao tấm gương sáng về phẩm chất, đạo đức, lối sống hết lòng vì nhân dân, vì sự nghiệp cách mạng; thường xuyên học tập, quán triệt, làm theo tư tưởng, đạo đức và phong cách Hồ Chí Minh. Để thực hiện điều đó, cần chú trọng đổi mới nội dung, hình thức sinh hoạt của tổ chức Đảng các cấp, thường xuyên lấy ý kiến nhận xét của nhân dân về tư cách, đạo đức cán bộ, đảng viên; coi trọng công tác kiểm tra, giám sát, thi hành kỷ luật của Đảng một cách nghiêm minh đối với những cán bộ, đảng viên vi phạm các quy định về trách nhiệm, phẩm chất, đạo đức, lối sống.
           
Hai là, sớm có biện pháp kiện toàn hệ thống các cơ quan làm công tác tổ chức, cán bộ đủ năng lực để hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao. Cần có các cơ chế, chính sách, biện pháp cụ thể xây dựng đội ngũ cán bộ làm công tác tổ chức, công tác xây dựng Đảng tuyệt đối trung thành với mục tiêu, lý tưởng của Đảng; trung thực, liêm chính, công tâm, khách quan; có năng lực nhận xét, đánh giá cán bộ và phát hiện hiền tài. Xây dựng, bổ sung và hoàn thiện các quy chế, quy định nhằm mở rộng và phát huy dân chủ, thực hiện công khai, minh bạch trong công tác cán bộ. Xây dựng, bổ sung và hoàn thiện các quy chế, quy định về công tác cán bộ, làm cho công tác cán bộ đi vào nền nếp, thực sự có tính khoa học, bảo đảm hoạt động thống nhất theo nguyên tắc, chuẩn mực chung, khắc phục tình trạng tùy tiện, áp đặt chủ quan, “duy tình” trong công tác cán bộ.
Ba là, cùng với yêu cầu kiện toàn đội ngũ cán bộ bảo đảm tính kế thừa và phát triển cân đối, vững chắc cả về độ tuổi, cơ cấu đội ngũ, sự đồng đều giữa các vùng, miền,... cần cụ thể hoá tiêu chuẩn các chức danh cán bộ lãnh đạo, quản lý, đề cao vai trò, trách nhiệm người đứng đầu cơ quan. Căn cứ vào tiêu chuẩn chung để xây dựng, cụ thể hoá các chức danh cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp làm cơ sở cho công tác phát hiện, tuyển chọn, quy hoạch đào tạo và bố trí, sử dụng cán bộ. Cụ thể hoá tiêu chuẩn các chức danh cán bộ lãnh đạo, quản lý, đặc biệt là quy định rõ chế độ trách nhiệm của người đứng đầu trực tiếp trong từng ngành, từng lĩnh vực, khi để xảy ra tiêu cực, tham nhũng, lãng phí,...
Bốn là, đổi mới quan điểm, phương pháp, quy trình đánh giá cán bộ; coi đánh giá cán bộ là khâu quan trọng hàng đầu trong công tác cán bộ. Đánh giá cán bộ phải bảo đảm công khai, minh bạch, trung thực, khách quan, toàn diện, lấy hiệu quả hoàn thành nhiệm vụ làm thước đo chủ yếu trong đánh giá cán bộ; phải phát huy vai trò, trách nhiệm của cấp uỷ, tập thể lãnh đạo cơ quan có thẩm quyền và người đứng đầu tổ chức trong xem xét, quyết định đề bạt, bổ nhiệm cán bộ và chịu trách nhiệm về quyết định đó. Đánh giá cán bộ phải căn cứ vào năng lực quy tụ, đoàn kết, phát huy sức mạnh tập thể, thể hiện ở hiệu quả công tác, sự tiến bộ và kết quả cụ thể ở nơi cán bộ phụ trách; bản thân không quan liêu, tham nhũng, lãng phí và kiên quyết đấu tranh chống tham nhũng, lãng phí.
Năm là, đổi mới công tác quy hoạch, tạo nguồn cán bộ lãnh đạo, quản lý. Trước hết, cần rà soát lại quy hoạch, căn cứ vào tiêu chuẩn chức danh đã xây dựng mà đánh giá lại thực chất của đội ngũ và từng người, qua đó đưa ra khỏi diện quy hoạch những cán bộ không đủ tiêu chuẩn. Đồng thời đánh giá, lựa chọn bổ sung cán bộ ngoài diện quy hoạch đủ tiêu chuẩn, có triển vọng đưa vào diện quy hoạch. Đối với cán bộ diện quy hoạch đào tạo lâu dài, cần xem xét, lựa chọn nguồn cán bộ đưa vào quy hoạch lâu dài là những người ưu tú trong công nhân trẻ, công chức trẻ, trong sinh viên xuất sắc đã tốt nghiệp, trong lực lượng vũ trang có triển vọng để trước mắt đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ cấp cơ sở, trên cơ sở đó tạo nguồn cán bộ lãnh đạo, quản lý. Cần quan tâm nhiều hơn đến cơ chế phát hiện cán bộ có đức, có tài bằng các cơ chế tiến cử, thi tuyển thật sự công khai, dân chủ, minh bạch, khách quan; có chính sách phát huy, sử dụng tốt tiềm năng trí tuệ của đội ngũ trí thức và tầng lớp doanh nhân; không phân biệt người trong Đảng hay ngoài Đảng.
Sáu là, tăng cường quản lý, nâng cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng cán bộ về LLCT theo hướng đổi mới, cập nhật kiến thức trong giảng dạy; đổi mới cách dạy, cách học, phát huy tính tích cực của học viên, vận dụng kiến thức vào giải quyết những vấn đề mới nảy sinh trong thực tiễn. Đẩy mạnh công tác nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn của các giảng viên và học viên, đóng góp vào việc tổng kết, xây dựng chủ trươơng, đường lối, chính sách của Đảng. Đổi mới mạnh mẽ nội dung, chương trình đào tạo, bồi dưỡng cán bộ; chú trọng bồi dưỡng hài hòa cả về lý luận, thực tiễn, kỹ năng thực hành và đạo đức cách mạng, cả về đức và tài. Thực hiện đào tạo, bồi dưỡng cán bộ theo các tiêu chuẩn chức danh, lấy tiêu chuẩn cán bộ làm căn cứ xây dựng chương trình đào tạo với nội dung thiết thực, phù hợp. Tiếp tục triển khai các lớp bồi dưỡng kiến thức mới đối với diện Trung ươơng quản lý. Xây dựng và triển khai kế hoạch cử cán bộ đi nghiên cứu, học tập, trao đổi kinh nghiệm tiên tiến ở nươớc ngoài. Nâng cao chất lượng đội ngũ giảng viên và tăng cường cơ sở vật chất, kinh phí cho hệ thống các trường chính trị, trường hành chính, trường đoàn thể. Khuyến khích, tạo điều kiện cho cán bộ, đảng viên tự học tập, tự nghiên cứu.
 
TS. Trần Hậu Thành
Ban Tổ chức Trung ương
 
1- ĐCSVN - Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb. CTQG, H.2006, tr. 280.
 

Ý kiến bạn đọc (0)