QPTD -Chủ Nhật, 30/10/2011, 23:02 (GMT+7)
Tư duy mới về bảo vệ Tổ quốc và vấn đề đặt ra trong xây dựng nền quốc phòng toàn dân hiện nay

Quán triệt đường lối cách mạng của Đảng qua các thời kỳ và từ thực tiễn thực hiện nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc XHCN trong mấy chục năm qua, nhất là qua 20 năm đổi mới, tư duy bảo vệ Tổ quốc nói chung, tư duy xây dựng nền quốc phòng toàn dân (QPTD) nói riêng của chúng ta đã có sự phát triển từng bước và đổi mới mạnh mẽ. Chúng ta ngày càng nhận thức sâu sắc, đầy đủ và toàn diện hơn về nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc XHCN trong thời bình; về những yếu tố cấu thành và những chủ trương, biện pháp tạo nên sức mạnh quốc phòng của đất nước trong điều kiện mới. Nghị quyết Trung ương 8 (khóa IX) đã chỉ rõ: bảo vệ Tổ quốc là bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ; bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ XHCN; bảo vệ sự nghiệp đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước; bảo vệ lợi ích quốc gia, dân tộc; bảo vệ an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội và nền văn hóa; giữ vững ổn định chính trị và môi trường hòa bình, phát triển đất nước theo định hướng XHCN. Nghị quyết còn khẳng định: bảo vệ Tổ quốc XHCN không chỉ là đối phó với hành động vũ trang xâm lược của kẻ địch từ bên ngoài, mà còn phải đặc biệt chăm lo xây dựng và giữ vững bên trong, đối phó với những thủ đoạn phi vũ trang của địch. Sức mạnh bảo vệ Tổ quốc là sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc, của cả hệ thống chính trị, dưới sự lãnh đạo của Đảng; là sự kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, giữa quốc phòng với an ninh, kinh tế, đối ngoại và các lĩnh vực khác. Nhận thức mới này mở rộng nội dung bảo vệ Tổ quốc XHCN trong điều kiện toàn cầu hóa kinh tế và hội nhập kinh tế quốc tế, đã khắc phục sự phiến diện trong tư duy chỉ nhấn mạnh đến bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ; làm rõ hơn mối quan hệ thống nhất, chặt chẽ, biện chứng giữa các nội dung trong nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN, khắc phục những quan niệm một chiều, giản đơn về bảo vệ Tổ quốc, chỉ nhấn mạnh đến mặt tự nhiên-lịch sử, hoặc chỉ nhấn mạnh bảo vệ chính trị-xã hội.

 Sự phát triển và đổi mới mạnh mẽ tư duy bảo vệ Tổ quốc XHCN dẫn đến những phát triển tư duy về xây dựng nền QPTD trong điều kiện mới. Nghị quyết Đại hội X của Đảng đã chỉ rõ mục tiêu xây dựng nền QPTD của ta là: “Xây dựng nền QPTD và an ninh nhân dân vững mạnh toàn diện; bảo vệ vững chắc Tổ quốc, độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ; bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ XHCN; bảo vệ an ninh chính trị, an ninh kinh tế, an ninh tư tưởng văn hóa và an ninh xã hội; duy trì trật tự, kỷ cương, an toàn xã hội; giữ vững ổn định chính trị của đất nước, ngăn ngừa, đẩy lùi và làm thất bại mọi âm mưu, hoạt động chống phá, thù địch, không để bị động, bất ngờ”. Để thực hiện thắng lợi nhiệm vụ trọng đại này, đòi hỏi toàn Đảng, toàn dân, toàn quân, các cấp, các ngành, các địa phương cần phải quán triệt sâu sắc quan điểm, tư tưởng mới của Đảng và những yêu cầu về xây dựng nền QPTD trong tình hình hiện nay. Đó là, xây dựng một nền quốc phòng của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, mang tính chất toàn dân, toàn diện, độc lập, tự chủ và ngày càng hiện đại dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý thống nhất của Nhà nước. Tiếp tục đổi mới tư duy lý luận về xây dựng nền QPTD; sức mạnh tổng hợp của QPTD và chiến tranh nhân dân trong điều kiện mới. Tập trung làm rõ các mối quan hệ giữa xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; lực lượng và thế trận QPTD; quan hệ giữa quốc phòng với an ninh, đối ngoại, kinh tế..., quan hệ giữa thù trong và giặc ngoài; đối tượng và đối tác; phân biệt rõ bạn, thù để khắc phục các biểu hiện mơ hồ, ảo tưởng; nhận rõ mối quan hệ giữa hoạt động chống phá của các thế lực thù địch từ bên ngoài với những sai lầm, yếu kém bên trong nội bộ. Trong xây dựng nền QPTD, lấy nhiệm vụ phát triển kinh tế là trung tâm, xây dựng Đảng là then chốt, xây dựng, củng cố quốc phòng là trọng yếu thường xuyên. Chủ động giải quyết các mâu thuẫn: giữa tốc độ phát triển chậm của nền kinh tế với yêu cầu xây dựng nền QPTD vững chắc; giữa trình độ khoa học kỹ thuật của đất nước còn thấp với yêu cầu hiện đại hóa quân sự, quốc phòng; giữa yêu cầu bảo vệ vững chắc chế độ chính trị với tăng cường nhanh sức mạnh quốc phòng để ngăn ngừa và sẵn sàng đánh thắng địch trong chiến tranh hiện đại có sử dụng vũ khí công nghệ cao. Trong đấu tranh quốc phòng, cần quán triệt và nắm vững quan điểm, chủ trương, đường lối đối nội, đối ngoại của Đảng; nắm vững nguyên tắc chiến lược, vận dụng sáng tạo sách lược phù hợp với từng đối tượng, chú trọng thêm bạn, bớt thù. Quán triệt tư tưởng cách mạng tiến công, chủ động, tích cực phòng thủ vững chắc, bảo vệ từ xa; chủ động giải quyết tình huống kịp thời, nhanh gọn, không để mở rộng, kéo dài, kẻ địch lợi dụng tạo cớ can thiệp. Sử dụng lực lượng vũ trang (LLVT), nhất là Quân đội phải phù hợp, đúng quy định. Phát huy sức mạnh tại chỗ, lấy cơ sở để giải quyết là chủ yếu; chú ý vận dụng phù hợp các biện pháp, giáo dục, kiên trì vận động thuyết phục đi đôi với xử lý nghiêm bằng biện pháp hành chính và pháp luật.

Trên cơ sở quán triệt và nắm vững quan điểm, tư tưởng, yêu cầu mới về xây dựng nền QPTD, cần đề ra các giải pháp đồng bộ, trong đó chú trọng tập trung thực hiện tốt một số vấn đề cơ bản sau:

Tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng và hiệu lực quản lý, điều hành của Nhà nước trong xây dựng nền QPTD. Phải khẳng định rằng, từ tổng kết thực tiễn lãnh đạo chiến tranh, xây dựng CNXH, bảo vệ Tổ quốc, Đảng ta đã đề ra cơ chế lãnh đạo, quản lý quốc phòng khoa học và đúng đắn. Được khảo nghiệm qua hoạt động thực tiễn của 20 năm đổi mới, cơ chế đó đã phát huy hiệu lực và hiệu quả. Tuy nhiên, qua vận hành, cơ chế đó cũng còn những điểm hạn chế cần được tổ chức tổng kết rút kinh nghiệm để tiếp tục bổ sung, hoàn chỉnh. Về Đảng, nghiên cứu bổ sung, điều chỉnh hệ thống cơ cấu tổ chức lãnh đạo sự nghiệp quốc phòng cho thống nhất, đồng bộ từ Trung ương đến các địa phương, nhất là đối với cấp quân khu và cơ sở. Cụ thể hóa các nội dung cần lãnh đạo về quốc phòng và bổ sung thêm cơ chế hoạt động của từng cấp, ngành, địa phương, đặc biệt chú trọng khi xử trí các tình huống phức tạp. Về Nhà nước, điều chỉnh cơ cấu tổ chức quản lý nhà nước về quốc phòng của bộ máy các cấp từ Trung ương đến cơ sở. Xác định cụ thể cơ chế hoạt động, chức năng, nhiệm vụ của các cơ quan, cán bộ chuyên trách về công tác quốc phòng ở các bộ, ngành. Xây dựng và ban hành quy chế thực hiện nhiệm vụ quốc phòng cho cán bộ cơ quan, ban, ngành các cấp để phát huy cao nhất quyền lực trong quản lý nhà nước về quốc phòng. Các cơ quan chức năng, tổ chức phân công cán bộ chuyên trách, tăng cường bồi dưỡng, hướng dẫn để phát huy vai trò làm tham mưu trong tổ chức thực hiện xây dựng và quản lý công tác quốc phòng. Tiếp tục nghiên cứu xây dựng quy chế quan hệ phối hợp, hiệp đồng giữa các ban ngành, các cấp, nhất là trong xử lý các tình huống. Thực hiện tốt Quy chế phối hợp giữa Bộ Quốc phòng và Bộ Công an, nhất là ở cấp cơ sở.

Phát huy sức mạnh tổng hợp xây dựng tiềm lực quốc phòng. Tiềm lực quốc phòng là khả năng vật chất, tinh thần có thể huy động được để bảo vệ đất nước, là nguồn lực tổng hợp của các tiềm lực chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, quân sự, an ninh, đối ngoại, trong đó tiềm lực quân sự là đặc trưng. Mức độ huy động tiềm lực quốc phòng tùy thuộc vào nhiều yếu tố, trong đó vai trò lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước và sự tham gia của toàn dân có ý nghĩa quyết định. Muốn vậy, phải tiếp tục nâng cao chất lượng giáo dục quốc phòng cho toàn dân, trước hết là bồi dưỡng kiến thức quốc phòng theo phân cấp cho các đối tượng cán bộ Đảng, Nhà nước, đoàn thể ở các cấp. Biện pháp cụ thể là, tổ chức rút kinh nghiệm, bổ sung điều chỉnh về tổ chức, chương trình, nội dung, phương pháp giáo dục, bồi dưỡng cho sát hợp, thiết thực hơn với từng đối tượng. Mục tiêu giáo dục, bồi dưỡng không chỉ nhằm nâng cao quan điểm, nhận thức, ý thức trách nhiệm đối với nhiệm vụ quốc phòng, nâng cao ý thức cảnh giác, xây dựng lòng tin, lòng tự tôn dân tộc, tự hào về truyền thống dân tộc, mà còn phải chú trọng bồi dưỡng, hướng dẫn về nội dung, phương pháp, kinh nghiệm giải quyết những vấn đề cụ thể, thiết thực, sát thực tế như phương pháp phát động quần chúng, xây dựng cơ sở chính trị; cách xây dựng quy hoạch, kế hoạch kết hợp kinh tế với quốc phòng-an ninh; tổ chức thực hiện các chính sách xã hội, xóa đói, giảm nghèo; cách đấu tranh xử lý các tình huống phức tạp theo yêu cầu đặt ra đối với từng đối tượng.

Đẩy mạnh xây dựng thế trận QPTD vững chắc. Tiếp tục xây dựng bổ sung, điều chỉnh quy hoạch, kế hoạch kết hợp kinh tế-xã hội với quốc phòng-an ninh cho phù hợp với tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Đặc biệt quan tâm việc bố trí cơ cấu đầu tư phát triển kinh tế, kỹ thuật theo hướng “đan xen lợi ích” trên các địa bàn, vùng miền, thành phần kinh tế khác nhau. Tổ chức xây dựng thế trận QPTD bảo đảm liên hoàn, vững chắc, kết hợp thế trận tại chỗ với cơ động, rộng khắp, thời bình và thời chiến, tập trung các hướng, khu vực, mục tiêu trọng điểm chiến lược. Tiếp tục nghiên cứu việc tổ chức chiến trường theo yêu cầu mới, làm cơ sở để xây dựng căn cứ hậu phương chiến lược, căn cứ hậu cần-kỹ thuật trên từng hướng chiến trường, gắn với việc đầu tư xây dựng các công trình phòng thủ quốc gia, phòng thủ dân sự. Bổ sung điều chỉnh thế bố trí các lực lượng tác chiến kết hợp giữa chủ lực với địa phương, tại chỗ và cơ động, trên không với trên bộ, trên biển và trên biên giới đất liền, biển đảo. Đẩy mạnh hơn việc xây dựng khu vực phòng thủ tỉnh (thành phố) vào chiều sâu, ngày càng vững chắc. Chú trọng thực hiện quy hoạch điều chỉnh dân cư đến các vùng còn thưa dân, nhiều đất đai và tiềm năng chưa được khai thác như vùng sâu, vùng xa trên biên giới đất liền, biển đảo, nhất là các đảo xa bờ, không có dân để tạo các điểm dân cư mới. Tiếp tục đầu tư ngân sách và lực lượng thực hiện các dự án xây dựng các khu kinh tế-quốc phòng đã được duyệt để đạt hiệu quả kinh tế, sớm hình thành thế trận QPTD trên các địa bàn trọng điểm chiến lược nơi biên giới đất liền và biển đảo. Xây dựng thế trận QPTD phải tiến hành đồng bộ, trên nhiều mặt, nhưng quan trọng và quyết định nhất là tập trung xây dựng cơ sở vững mạnh toàn diện, có hệ thống chính trị với cơ sở chính trị mạnh, tạo cho được “thế trận lòng dân” vững chắc.

Đẩy mạnh xây dựng lực lượng quốc phòng, nhất là LLVT nhân dân, Quân đội nhân dân (QĐND) theo yêu cầu mới. Lực lượng quốc phòng là tổng hợp lực lượng vật chất và tinh thần của các nguồn lực có thể huy động để tạo thành sức mạnh phòng thủ quốc gia, bảo vệ Tổ quốc. Sức mạnh của lực lượng quốc phòng phụ thuộc vào chất lượng xây dựng chính trị, quân sự, kinh tế, ngoại giao, khoa học-công nghệ..., trong đó yếu tố quyết định, nòng cốt là LLVT nhân dân, QĐND. Ngày nay, QĐND (gồm bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương và bộ đội biên phòng) vẫn luôn là đội quân chiến đấu, công tác và lao động, sản xuất, thực hiện nhiều nhiệm vụ chính trị-xã hội quan trọng theo yêu cầu mới. Vì vậy, phải tiếp tục đẩy mạnh xây dựng QĐND cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại; nâng cao hơn nữa chất lượng tổng hợp, sức mạnh chiến đấu và trình độ sẵn sàng chiến đấu của QĐND, đặc biệt là đổi mới chương trình, nội dung, phương pháp giáo dục, huấn luyện, đào tạo cho phù hợp yêu cầu, nhiệm vụ tác chiến trong điều kiện mới. Trong huấn luyện nắm vững phương châm “cơ bản, thiết thực, vững chắc, đồng bộ và chuyên sâu”. Chú trọng tổ chức đào tạo “liên thông”, “liên kết” trong các học viện, nhà trường trong nước và hội nhập quốc tế. Coi trọng đào tạo, bồi dưỡng cán bộ lãnh đạo chỉ huy toàn năng, nhân tài quân sự và nhân viên chuyên môn kỹ thuật giỏi. Huấn luyện sát với yêu cầu chiến đấu, theo phương án; kết hợp cách đánh mới và cách đánh truyền thống; cách đánh của ta với vận dụng kinh nghiệm của các nước; kết hợp cách đánh du kích với đánh chính quy, hiện đại. Đi đôi với tiếp tục giảm quân số thường trực, cần quay vòng nhanh số quân phục vụ tại ngũ để tăng nhanh lực lượng dự bị động viên. Tiếp tục đổi mới biện pháp tổ chức quản lý, huấn luyện để không ngừng nâng cao khả năng động viên và sức chiến đấu của quân dự bị, rút ngắn khoảng cách trình độ so với quân thường trực; có thể nhanh chóng bước vào tác chiến khi được động viên. Trong tình hình mới, dân quân, tự vệ có nhiều thay đổi về tổ chức, biên chế, xây dựng và hoạt động. Cần tiếp tục nghiên cứu đổi mới mô hình tổ chức dân quân, tự vệ cho phù hợp với các thành phần kinh tế, nhất là kinh tế đối ngoại. Tổ chức dân quân, tự vệ rộng khắp, nhưng phải tập trung có trọng điểm. Trang bị tuy vẫn thô sơ nhưng phải kết hợp với tương đối hiện đại và hiện đại. Huấn luyện toàn diện nhưng phải kết hợp với chuyên sâu, đặc biệt coi trọng giáo dục, rèn luyện nâng cao bản lĩnh chính trị, có trình độ kỹ chiến thuật đáp ứng yêu cầu tác chiến bảo vệ địa phương, cơ sở, cơ quan, doanh nghiệp... trong mọi tình huống cả thời bình và thời chiến.

Đại tá Phạm Trang

 

Ý kiến bạn đọc (0)