QPTD -Thứ Sáu, 16/09/2011, 23:52 (GMT+7)
Tự do tôn giáo phải gắn liền với chấp hành nghiêm pháp luật

Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng, Nhà nước ta luôn luôn tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, coi đó là nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân và được pháp luật ghi nhận. Đồng thời, pháp luật Việt Nam cũng quy định mọi công dân (có đạo hay không có đạo), mọi tổ chức đều phải nghiêm chỉnh chấp hành các quy định của pháp luật.

Hiến pháp nước Cộng hoà XHCN Việt Nam năm 1992 nêu rõ: “Công dân Việt Nam có quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, theo hoặc không theo một tôn giáo nào. Các tôn giáo đều bình đẳng trước pháp luật. Những nơi thờ tự của các tín ngưỡng, tôn giáo được pháp luật bảo hộ, không ai được xâm phạm tự do tín ngưỡng, tôn giáo hoặc lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để làm trái pháp luật và chính sách của Nhà nước”. Tự do tín ngưỡng, tôn giáo của công dân cũng được đề cập trong Bộ Luật Dân sự và được cụ thể hóa trong các văn bản quy phạm pháp luật khác, ngày càng hoàn thiện hơn. Pháp lệnh Tín ngưỡng, tôn giáo xác định rõ quyền và nghĩa vụ của các cá nhân, tổ chức tôn giáo, trách nhiệm của các cơ quan quản lý nhà nước trong việc đảm bảo quyền và nghĩa vụ của các tổ chức, cá nhân trong hoạt động tôn giáo. Pháp lệnh Tín ngưỡng, tôn giáo là một minh chứng, một bước tiến tiếp tục khẳng định nguyên tắc nhất quán trong chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước ta là tôn trọng tự do tín ngưỡng, tôn giáo của công dân. Điều đó không chỉ thể hiện trong chủ trương, chính sách, pháp luật, mà còn bằng những hành động cụ thể của cả hệ thống chính trị, từ Trung ương đến các địa phương.

Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và cấp uỷ, chính quyền các cấp luôn quan tâm tạo điều kiện để các tôn giáo hoạt động đúng pháp luật; thường xuyên đến thăm hỏi, trao đổi với các chức sắc tiêu biểu của các tôn giáo, động viên đông đảo chức sắc, chức việc, tín đồ luôn nêu gương sống “Tốt đời, đẹp đạo”; quan tâm, tạo điều kiện thuận lợi cho người có đạo được tự do sinh hoạt tôn giáo.

Nhờ có chính sách đúng đắn của Đảng và Nhà nước, nên quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo luôn được mở rộng và đảm bảo; số lượng tín đồ, nơi thờ tự và các tổ chức tôn giáo trong cả nước liên tục tăng lên. Tính đến tháng 10-2007, số lượng tín đồ tôn giáo ở Việt Nam là 23 triệu người, chiếm gần 30% dân số cả nước. Trong đó, số người theo Phật giáo là 10 triệu; Công giáo 5,9 triệu; Tin lành 1 triệu; Cao Đài 3,2 triệu; Phật giáo Hòa Hảo 1,4 triệu và Hồi giáo 67.000, v.v. Từ năm 2005 đến nay, số tín đồ trong cả nước đã tăng thêm 2 triệu người; số tôn giáo tăng từ 6 với 16 tổ chức, lên 10 với 29 tổ chức; cơ sở thờ tự, nhà thờ, đền, chùa, thánh thất không ngừng gia tăng về số lượng và quy mô, với hơn 24.000 cơ sở. Mọi tổ chức tôn giáo đủ các điều kiện theo quy định của pháp luật Việt Nam đều được cấp đăng ký hoạt động và được đảm bảo tự do tín ngưỡng, tôn giáo bằng pháp luật. Bên cạnh đó, các cơ sở đào tạo và hoạt động đào tạo của các tôn giáo cũng không ngừng phát triển về số lượng và quy mô. Hiện Giáo hội Phật giáo Việt Nam có 3 học viện (với trên 1.000 tăng, ni sinh) và 15 trường cao đẳng, trung cấp Phật học, 15 trường sơ cấp Phật học; ngoài ra, còn có 274 tăng, ni du học ở nước ngoài. Giáo hội Công giáo có 7 Chủng viện với trên 3.000 chủng sinh; trong 2 năm 2006 và 2007 có 72 giám mục, linh mục đi hội thảo, đào tạo ở nước ngoài. Việc in ấn kinh sách, xuất bản ấn phẩm tôn giáo luôn đáp ứng nhu cầu hoạt động tôn giáo. Hiện nay, các tôn giáo lớn ở Việt Nam đều có các báo và tạp chí riêng, phát hành rộng rãi trên toàn quốc. Nhà nước ta đã có pháp luật và các quyết định cùng những hành động thiết thực để bảo vệ, sửa chữa, trùng tu mọi nơi thờ tự, hành lễ tôn giáo; đều coi nhà thờ, thánh thất, đền, chùa, miếu mạo là nơi tôn nghiêm... 

Thành phố Hà Nội (mở rộng), nơi đặt trụ sở của Trung ương Giáo hội, là địa bàn hoạt động của một số tôn giáo lớn, như: Phật giáo, Công giáo, Hội Thánh Tin lành Việt Nam (miền Bắc). Về Công giáo, trên địa bàn có 2 Tòa Tổng Giám mục của 2 giáo phận đặt tại Hà Nội và Sơn Tây; 01 Đại Chủng viện, Văn phòng của Hội đồng Giám mục Việt Nam; 76 giáo xứ, 350 họ giáo, có 01 hồng y, 03 giám mục, 49 linh mục, gần 2.000 chức việc, 397 cơ sở thờ tự; toàn Thành phố có 16 cộng đoàn tu sĩ với 211 tu sĩ ở 16 tu viện. Về Tin lành, trong thời gian qua, chính quyền Thành phố đã cấp giấy chứng nhận đăng ký sinh hoạt cho 08 điểm nhóm. Về Phật giáo, Hà Nội có số lượng cơ sở thờ tự, tăng ni và tín đồ rất lớn, với 1.833 chùa; có 02 trường Trung cấp Phật học với khoảng 580 tăng, ni sinh đang theo học. Toàn Thành phố có 2.353 tăng, ni, 07 hòa thượng, 18 thượng tọa, 28 ni trưởng, 45 ni sư, gần 300 Đại đức, v.v. Số lượng tín đồ trong toàn Thành phố khoảng trên 50 vạn. Hằng năm, Hà Nội tổ chức 12 trường hạ tại 13 điểm, tập trung khoảng 1.140 tăng ni dự an cư kiết hạ. Về Hồi giáo, Hà Nội có 01 Thánh đường; ngoài số tín đồ của Thành phố, còn có từ 40-60 tín đồ của 10 nước thuộc Cộng đồng các nước Hồi giáo đang làm việc tại các cơ sở sản xuất liên doanh, văn phòng đại diện nước ngoài, đại sứ quán tại Hà Nội, sinh hoạt thường xuyên.

Trong năm 2008, tại Hà Nội đã diễn ra một số hoạt động tôn giáo tiêu biểu, như: Tại Trung tâm Hội nghị quốc gia, Chính phủ Việt Nam phối hợp với Giáo hội Phật giáo Việt Nam, ủy ban Quốc tế tổ chức Đại lễ Phật đản Liên hợp quốc đã tổ chức thành công Đại lễ Phật đản Liên hợp quốc lần thứ 5 tại Việt Nam. Tham dự Đại lễ có đại diện lãnh đạo Đảng, Nhà nước cùng hơn 3.000 đại biểu Phật giáo của 74 quốc gia và vùng lãnh thổ, chức sắc một số tôn giáo, đại biểu các tổ chức quốc tế, đại sứ các nước, các đoàn ngoại giao có mặt tại Việt Nam, nhiều phóng viên các hãng thông tấn, báo chí và 10.000 phật tử trong và ngoài nước tham dự, v.v.

Các hoạt động của Công giáo tại Hà Nội đã được tổ chức thực hiện tốt. Đầu năm 2008, Hội đồng Giám mục Việt Nam đã tổ chức hội thảo “Liên kết các hoạt động thực hiện của Giáo hội Công giáo Việt Nam trước đại dịch HIV/AIDS” - năm 2008; Toà Tổng Giám mục Hà Nội đã tổ chức mừng thọ Hồng y Phạm Đình Tụng (90 tuổi), kỷ niệm 60 năm linh mục, 45 năm giám mục, 15 năm hồng y. Hội đồng Giám mục Việt Nam tổ chức Đại hội tu sĩ toàn quốc và Hội thảo quốc tế về học thuyết xã hội Công giáo. Đại Chủng viện Thánh Giê-su Hà Nội tổ chức kỳ thi tuyển chủng sinh (2008-2016) cho 116 thí sinh. Trong tháng 6-2008, đại diện Toà thánh Va-ti-căng đã đến thăm và làm việc tại Hà Nội. Đoàn đã tới thăm Toà Tổng Giám mục Hà Nội, gặp gỡ các Linh mục giáo phận Hà Nội và làm việc với lãnh đạo thành phố Hà Nội. Các sinh hoạt tín ngưỡng, tôn giáo khác vẫn diễn ra bình thường, đáp ứng nhu cầu của các tín đồ.

Vì vậy, Bộ Ngoại giao Mỹ hôm 20-9 khi công bố “Báo cáo tự do tôn giáo thế giới năm 2008” cũng thừa nhận: “tình trạng tôn trọng tự do tôn giáo ở Việt Nam tiếp tục được cải thiện đáng kể”.

Nhà nước ta bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo; đồng thời, để quyền tự do đó được bảo đảm thì mọi tổ chức, cá nhân phải nghiêm chỉnh chấp hành pháp luật Nhà nước. Nhà nước nghiêm cấm việc phân biệt đối xử vì lý do tín ngưỡng, tôn giáo cũng như vi phạm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của công dân hoặc lợi dụng quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo để gây mất ổn định chính trị, xã hội, phá hoại hoà bình, độc lập, thống nhất đất nước, kích động bạo lực... Nhà nước ta cũng như mọi quốc gia có chủ quyền khác đều có pháp luật riêng. Những quy định của pháp luật Việt Nam có hiệu lực trên toàn lãnh thổ đất nước; mọi tổ chức, mọi công dân Việt Nam đều phải nghiêm chỉnh chấp hành; mọi chức sắc, chức việc, tín đồ, dù theo tôn giáo nào, khi sinh sống trên đất nước Việt Nam, có quốc tịch Việt Nam, ngoài chấp hành các giáo luật (tất nhiên không trái với luật pháp Việt Nam và chỉ được thực hiện trong các cơ sở thờ tự), còn phải chấp hành pháp luật Việt Nam. Điều đó góp phần vào việc giữ vững an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội. Mặt khác, chính tình hình an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội được giữ vững lại là cơ sở để mọi người có điều kiện thực hiện tốt hơn nhu cầu tín ngưỡng, tôn giáo của mình. Đó không chỉ là trách nhiệm, mà còn là quyền lợi của mỗi công dân Việt Nam; do vậy, mỗi người, không thể lấy bất cứ lý do gì để vi phạm pháp luật cũng như làm phương hại đến quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của người khác. Pháp luật sẽ nghiêm trị những kẻ lợi dụng tôn giáo để xâm phạm lợi ích cộng đồng, xâm phạm quyền và lợi ích của công dân, làm mất ổn định chính trị, xã hội, ảnh hưởng đến sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. 

Nhờ có chính sách tôn trọng tự do tín ngưỡng, tôn giáo của Đảng và Nhà nước ta và việc chấp hành pháp luật Nhà nước của những người có đạo và không có đạo, của các tổ chức tôn giáo, nên hoạt động của các tôn giáo trong cả nước nói chung, ở Hà Nội nói riêng cơ bản tuân thủ đúng pháp luật; phần lớn chức sắc, tín đồ của các tôn giáo tin tưởng và thực hiện đúng chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về tín ngưỡng, tôn giáo. Các tôn giáo thực hiện khá nghiêm túc việc đăng ký lịch sinh hoạt tôn giáo hằng năm; các chức sắc, phật tử tích cực tham gia các phong trào do chính quyền các cấp phát động, như: xóa đói, giảm nghèo, xây dựng gia đình văn hóa, cứu trợ đồng bào bị lũ lụt, đấu tranh ngăn ngừa các tệ nạn xã hội,... góp phần vào thực hiện các chương trình kinh tế - xã hội của địa phương và góp phần củng cố khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Nhờ có chính sách tôn giáo đúng đắn của Đảng và Nhà nước ta, hầu hết các cơ sở thờ tự của các tôn giáo đều được sửa chữa, tu bổ lại. Những cơ sở thờ tự được xếp hạng di tích - lịch sử văn hóa được tôn tạo, bảo vệ. Các hộ dân lấn chiếm di tích đã được các địa phương và Nhà nước cấp kinh phí để di dời. Nhờ phương châm Nhà nước và nhân dân cùng làm, rất nhiều cơ sở tôn giáo được thay đổi, cảnh quan đẹp đẽ, lễ hội đông vui, trở thành các điểm sinh hoạt văn hóa sôi động, hình thành các điểm giao lưu của tín đồ. Trong những năm qua, nhiều cá nhân, tổ chức tôn giáo ở Việt Nam và Thủ đô Hà Nội đã mở rộng quan hệ đối ngoại với các cá nhân và tổ chức tôn giáo trong khu vực và quốc tế; tham gia các cuộc hội thảo quốc tế về tôn giáo và các sinh hoạt tôn giáo ở nước ngoài; mời các đoàn đến thăm và tổ chức một số hoạt động tôn giáo tại Việt Nam, tạo được sự hiểu biết lẫn nhau. Các tín đồ tôn giáo là người nước ngoài đang sinh sống và làm việc tại Việt Nam được các tỉnh, thành phố tạo điều kiện giúp đỡ về địa điểm sinh hoạt, được các tổ chức tôn giáo cử chức sắc hướng dẫn việc đạo. Quan hệ quốc tế của các tôn giáo Việt Nam được duy trì và phát triển. Số lượng xuất, nhập cảnh của các giáo sĩ, chức sắc tôn giáo ngày càng tăng lên. Các tôn giáo đã có nhiều đóng góp vào sự nghiệp đổi mới đất nước, nhất là trong lĩnh vực xã hội. Các cơ sở từ thiện, nhân đạo do các tôn giáo tự nguyện tạo dựng phát triển nhanh chóng ở nhiều nơi. Nhiều cơ sở khám, chữa bệnh miễn phí, các lớp học tình thương, dạy nghề; trong đó, có cả những người nhiễm HIV, những trẻ em lang thang cơ nhỡ, bị bố mẹ bỏ rơi… do các tôn giáo đảm nhận, đã góp phần chia sẻ những khó khăn với Nhà nước.

Tuy nhiên, bên cạnh đó, tình hình tôn giáo vẫn nổi lên một số vấn đề đáng quan tâm. Điển hình như vụ việc ở 42 phố Nhà Chung và tại khu đất 178 phố Nguyễn Lương Bằng (Hà Nội), Tổng Giám mục Hà Nội và Linh mục Giáo xứ Thái Hà ngang nhiên đòi đất Nhà nước đang quản lý; kích động giáo dân đập tường rào vào khu đất của cơ quan, doanh nghiệp đang sử dụng để dựng tượng Chúa, cầu nguyện ngày, đêm; ngăn cản chính quyền cơ sở thực thi pháp luật; làm mất trật tự xã hội, vi phạm kỷ cương phép nước, gây bất bình trong nhân dân, trong đó có nhiều giáo dân ở nhiều địa phương cũng bày tỏ thái độ phẫn nộ. Trước tình hình đó, các cấp chính quyền thành phố Hà Nội đã tiếp xúc, gặp gỡ các linh mục, giáo dân ở Toà Tổng Giám mục giáo phận Hà Nội và Giáo xứ Thái Hà để tuyên truyền, vận động làm rõ những hành vi vi phạm pháp luật và công khai các tài liệu liên quan tới việc bàn giao các khu đất ở 42 phố Nhà Chung và 178 phố Nguyễn Lương Bằng sang Nhà nước quản lý cùng các văn bản pháp lý có liên quan; nhất là Nghị quyết 23/2003/QH11 ngày 26-11-2003 của Quốc hội; khẳng định việc đòi lại đất ở 2 địa điểm trên là không có cơ sở. Tuy nhiên, các linh mục ở Toà Tổng Giám mục giáo phận Hà Nội và Giáo xứ Thái Hà vẫn khăng khăng đòi lại các khu đất trên, cho dù chính quyền Thành phố đã có ý kiến: nếu các giáo xứ có nhu cầu đất đai phục vụ cho nhu cầu tôn giáo thì phải đề nghị theo đúng trình tự pháp luật và Thành phố sẽ tạo điều kiện cấp đất ở vị trí khác. Thế nhưng, họ vẫn không quan tâm và nêu rõ quan điểm là đòi đất; ngụy biện, né tránh trách nhiệm trước việc giáo dân vi phạm pháp luật; thậm chí Tổng Giám mục Ngô Quang Kiệt còn có những lời lẽ xúc phạm đến danh dự của Tổ quốc, dân tộc... Những hành động đó không chỉ bộc lộ tim đen của họ trước công luận: lợi dụng việc đòi đất để gây rối, phá hoại an ninh chính trị, xã hội, kích động sự đối đầu của giáo dân với chính quyền, đẩy công dân - giáo dân đến vi phạm pháp luật Nhà nước, mà còn đi ngược lại lời răn của Chúa, làm hoen ố hình ảnh của Người, bôi nhọ hình ảnh của những giáo dân và linh mục chân chính, v.v.

Với những hành vi vi phạm pháp luật nêu trên, Chủ tịch ủy ban nhân dân thành phố Hà Nội đã cảnh cáo các ông Ngô Quang Kiệt - Tổng Giám mục giáo phận Hà Nội, Vũ Khởi Phụng - Linh mục chánh xứ Thái Hà và các giáo sĩ Nhà thờ Thái Hà: Nguyễn Văn Khải, Nguyễn Văn Thật, Nguyễn Ngọc Nam Phong; đồng thời, yêu cầu các ông này: 1.Dừng ngay các hành vi vi phạm pháp luật, nếu cố tình sẽ bị xử lý nghiêm minh theo pháp luật; vận động các giáo sĩ, giáo dân chấp hành đúng các quy định của pháp luật; không tổ chức hoạt động tôn giáo trái phép, khẩn trương di chuyển tượng, thánh giá, ảnh... về nơi thờ tự. 2.Không thông tin tuyên truyền với nội dung xuyên tạc, kích động, tung tin bịa đặt, lợi dụng, lôi kéo giáo sĩ, giáo dân vào các hoạt động vi phạm pháp luật. Đó là những quyết định được đông đảo nhân dân đồng tình ủng hộ.

Từ tình hình nói trên, để các nhu cầu tín ngưỡng, tôn giáo của nhân dân được đáp ứng đúng yêu cầu pháp luật, các cấp cần quan tâm làm tốt các nội dung công việc sau đây:

Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, nâng cao nhận thức cho mọi người hiểu rõ quan điểm, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước về công tác tôn giáo, tạo ra chuyển biến rõ nét trong nhận thức của đội ngũ cán bộ, công chức trong hệ thống chính trị. Từ đó, tạo điều kiện để các tôn giáo hoạt động theo đúng đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, đáp ứng nhu cầu tín ngưỡng, tôn giáo chính đáng của các chức sắc, chức việc và tín đồ tôn giáo. Kịp thời đấu tranh với những hành vi lợi dụng hoạt động tôn giáo để phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc, phá hoại công cuộc đổi mới của đất nước. Công tác quản lý nhà nước đối với các hoạt động tôn giáo phải đặt dưới sự lãnh đạo trực tiếp của cấp ủy, sự chỉ đạo chặt chẽ của chính quyền các cấp, phát huy sức mạnh của cả hệ thống chính trị cùng tham gia; trong đó, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội là hạt nhân. Tranh thủ sự chỉ đạo, hướng dẫn của các ban, ngành Trung ương, đặc biệt là Ban Tôn giáo Chính phủ, từng bước nâng cao hiệu lực quản lý nhà nước ở cơ sở về vấn đề tín ngưỡng, tôn giáo. Các cấp phải chủ động nắm tình hình, đề ra phương án giải quyết các vụ việc một cách thận trọng, đúng pháp luật, nhằm ổn định tình hình. Bằng mọi biện pháp phát huy được hiệu lực quản lý nhà nước của chính quyền xã, phường, thị trấn để giải quyết triệt để vụ việc tại cơ sở, không để vụ việc trở thành “điểm nóng”, gây ảnh hưởng đến tình hình chính trị, xã hội, trật tự, an toàn trên địa bàn. Cấp uỷ và chính quyền các địa phương phải quan tâm củng cố, nâng cao kiến thức nghiệp vụ, điều kiện làm việc cho đội ngũ làm công tác tôn giáo; xây dựng một cơ chế phối hợp đồng bộ, thống nhất giữa các ngành chức năng trong công tác quản lý tôn giáo, v.v.

Lại Hồng Khánh

Ủy viên Ban Thường vụ Thành ủy

Trưởng ban Tuyên giáo Thành ủy Hà Nội

 

Ý kiến bạn đọc (0)