QPTD -Chủ Nhật, 18/09/2011, 00:02 (GMT+7)
Từ cương lĩnh 1991, nhìn lại sự phát triển về lý luận bảo vệ Tổ quốc của Đảng ta

"Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH" ra đời năm 1991 trong bối cảnh tình hình quốc tế có những biến đổi to lớn và sâu sắc. Cuộc đấu tranh giai cấp và dân tộc vẫn diễn ra gay go, phức tạp; CNXH lâm vào thoái trào đang đứng trước nhiều khó khăn, thách thức. Nước ta đi lên CNXH bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, từ một nền kinh tế chậm phát triển, hậu quả chiến tranh để lại nặng nề. Trong khi đó, các thế lực thù địch luôn tìm cách chống phá chế độ XHCN và nền độc lập dân tộc của nhân dân ta.

Từ thực tiễn đó, Cương lĩnh xác định: “Xây dựng CNXH và bảo vệ Tổ quốc (BVTQ) là hai nhiệm vụ chiến lược của cách mạng Việt Nam. Trong khi đặt lên hàng đầu nhiệm vụ xây dựng đất nước, nhân dân ta luôn nâng cao cảnh giác, củng cố quốc phòng, bảo đảm an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, BVTQ và các thành quả cách mạng”1. Đồng thời, Cương lĩnh cũng chỉ rõ: “Nhiệm vụ quốc phòng-an ninh (QP-AN) là bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, lãnh thổ toàn vẹn của Tổ quốc, bảo vệ chế độ XHCN, sự ổn định chính trị, trật tự và an toàn xã hội, quyền làm chủ của nhân dân, làm thất bại mọi âm mưu và hành động của các thế lực đế quốc, phản động phá hoại sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta”2. Những định hướng cơ bản về nhiệm vụ BVTQ trong Cương lĩnh đã được cụ thể hóa qua các kỳ Đại hội Đảng, từ khóa VII đến khóa X. Kết quả thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược cũng được Đảng ta đánh giá qua mỗi kỳ Đại hội. Đặc biệt, tại Đại hội X gắn với tổng kết 20 năm đổi mới đất nước (1986- 2006), Đảng ta đã khẳng định: “Công cuộc đổi mới ở nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn và có ý nghĩa lịch sử… Chính trị - xã hội ổn định. Quốc phòng và an ninh được giữ vững. Vị thế nước ta trên trường quốc tế không ngừng nâng cao”3. Những thành tựu đó chứng tỏ đường lối về QP-AN trong sự nghiệp BVTQ của Đảng ta là đúng đắn, sáng tạo, phù hợp với thực tiễn Việt Nam.

Qua gần 20 năm thực hiện Cương lĩnh 1991, tuy chưa được tổng kết nhưng với những thành quả đạt được đối với nhiệm vụ BVTQ có thể thấy, về lý luận, đã có một số nội dung phát triển mới cần nghiên cứu.

Một là, phát triển nhận thức về BVTQ trong thời kỳ mới. Trước những biến đổi sâu sắc của tình hình thế giới và trong nước, nhận thức về nhiệm vụ BVTQ đã có những phát triển mới. BVTQ ngày nay không chỉ là bảo vệ độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ mà còn bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ XHCN; bảo vệ sự nghiệp đổi mới và mọi lợi ích của quốc gia, dân tộc; giữ vững sự ổn định và phát triển mọi mặt của đất nước. Như vậy, điểm mới cơ bản, bao trùm của nhiệm vụ BVTQ là phải bảo vệ đất nước một cách toàn diện trên mọi lĩnh vực, mọi vùng miền, trong mọi hoàn cảnh, cả trong hòa bình và khi có chiến tranh xảy ra. Để làm được điều đó, cần không ngừng củng cố và tăng cường QP-AN, coi đó là nhiệm vụ trọng yếu thường xuyên của toàn dân và của Nhà nước. Quốc phòng ngày nay không chỉ chống giặc ngoài (như quan niệm trước đây), mà còn phải chống cả thù trong; không chỉ nhằm để đánh thắng chiến tranh xâm lược, mà trước hết phải giải quyết kịp thời, có hiệu quả mọi tình huống trong thời bình và ngăn ngừa, đẩy lùi nguy cơ chiến tranh. Do đó, quốc phòng không đồng nhất với quân sự, mà bao trùm và bao gồm nhiều nội dung, gắn xây dựng với bảo vệ.

Bên cạnh đó, nhận thức về sức mạnh BVTQ cũng có bước phát triển mới. Đó không đơn thuần là sức mạnh quân sự, mà là sức mạnh tổng hợp của toàn Đảng, toàn dân, của cả hệ thống chính trị; là sức mạnh của các lĩnh vực, các ngành, các cấp, các lực lượng, trong đó QP-AN giữ vai trò nòng cốt. Đặc biệt, trong tình hình hiện nay, sức mạnh BVTQ không chỉ là sức mạnh của dân tộc (nội lực) mà còn tranh thủ sức mạnh của các nước (ngoại lực) thông qua hợp tác quốc tế. 

Bước phát triển nhận thức về BVTQ còn được thể hiện ở phương thức BVTQ. Trước đây, theo tư duy quân sự, phương thức BVTQ được hiểu chủ yếu bằng lực lượng và các biện pháp quân sự. Ngày nay, nó là sự kết hợp cả đấu tranh vũ trang và phi vũ trang, sự “Phối hợp hoạt động quốc phòng và an ninh với hoạt động đối ngoại”4. BVTQ phải trên cơ sở bảo vệ từng lĩnh vực, từng ngành, từng mục tiêu, lấy tự bảo vệ của từng chủ thể là chủ yếu. Đồng thời, phải chủ động phối hợp, hiệp đồng với các lực lượng để được bảo vệ và tham gia bảo vệ trong phạm vi có liên quan; trong đó, hết sức coi trọng mối quan hệ “đan xen lợi ích” với các đối tác kinh tế.

  Hai là, phát triển lý luận về xây dựng nền quốc phòng toàn dân (QPTD). Nền QPTD ngày nay (xét ở góc độ nhất định) là sự kết hợp chặt chẽ giữa lực lượng quốc phòng với thế trận quốc phòng, nhằm tạo ra sức mạnh tổng hợp BVTQ. Vì vậy, khái niệm về xây dựng nền QPTD đã có sự phát triển mới về lý luận. Khi nói đến xây dựng nền QPTD thì phải xét đến mối quan hệ giữa xây dựng “lực lượng quốc phòng” với bố trí, triển khai các lực lượng đó thành “thế trận quốc phòng”, đặt dưới sự  lãnh đạo của Đảng và quản lý, điều hành của Nhà nước, nhằm thực hiện nhiệm vụ BVTQ. Xây dựng nền QPTD ngày nay phải đạt được yêu cầu: “vững mạnh toàn diện, độc lập, tự chủ, tự lực, tự cường” theo hướng: “toàn dân, toàn diện, hiện đại”. Đồng thời, phải nắm vững các quan điểm: phát huy sức mạnh tổng hợp; do toàn Đảng, toàn dân, toàn quân tiến hành; lấy xây dựng kinh tế là trung tâm, xây dựng Đảng là then chốt, xây dựng văn hóa là quan trọng; xây dựng quốc phòng phải đi đôi với đấu tranh quốc phòng; gắn kết chặt chẽ giữa xây dựng quốc phòng, an ninh, kinh tế và đối ngoại…

Trong xây dựng, củng cố quốc phòng, phải tiến hành nhiều nội dung, nhiều hoạt động đan xen, trong đó các hoạt động đấu tranh sẽ diễn ra thường xuyên và sôi động trên tất cả các lĩnh vực. Do vậy, đấu tranh quốc phòng là một khái niệm mới để chỉ các hoạt động đấu tranh bằng các biện pháp thích hợp để BVTQ trong thời bình. Những hoạt động đấu tranh đó là tất yếu, thể hiện mối quan hệ giữa xây dựng và bảo vệ, bảo đảm cho nền QPTD phát triển vững chắc. Đấu tranh quốc phòng còn thể hiện tư tưởng cách mạng tiến công, chủ động, tích cực bảo vệ từ xa, giữ vững ổn định bên trong, đồng thời ngăn chặn mọi nguy cơ từ bên ngoài.

Ba là, phát triển lý luận về xây dựng lực lượng quốc phòng. Lực lượng quốc phòng là thuật ngữ mới, hình thành trong xây dựng nền QPTD. Đó là một yếu tố có quan hệ hữu cơ với thế trận quốc phòng để tạo thành nền QPTD và sức mạnh tổng hợp BVTQ. Lực lượng quốc phòng bao gồm các lực lượng vũ trang và phi vũ trang. Trong đó, lực lượng vũ trang nhân dân bao gồm Quân đội nhân dân, Công an nhân dân và Dân quân, tự vệ; lực lượng phi vũ trang bao gồm các lực lượng chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội..., có liên quan, tạo thành sức mạnh quốc phòng. Vì vậy, quan niệm chỉ thiên về lực lượng quân sự trong xây dựng quốc phòng (như trước đây) đã không còn phù hợp.

Trong thời bình, lực lượng quốc phòng vừa trực tiếp đấu tranh quốc phòng, vừa góp phần giữ vững ổn định tình hình đất nước, vừa ngăn ngừa, đẩy lùi và sẵn sàng đánh thắng chiến tranh xâm lược. Do đó, xây dựng lực lượng quốc phòng trong thời bình cần phải đặt trong mối quan hệ mật thiết với lực lượng tiến hành chiến tranh; thế trận QPTD phải gắn kết với thế trận chiến tranh nhân dân (CTND), hay nói rõ hơn, thế trận QPTD phải là cơ sở và được chuyển hóa thành thế trận CTND khi đất nước xảy ra chiến tranh. Đây là mối quan hệ giữa thế và lực, giữa thời bình với thời chiến, đồng thời cũng thể hiện quan điểm QPTD, CTND của Đảng. Mặt khác, với tư duy mới về BVTQ, nhiệm vụ quốc phòng và an ninh ngày càng gắn bó mật thiết, luôn đan xen với nhau, rất khó phân biệt ranh giới. Do vậy, trong đấu tranh quốc phòng và an ninh, hai lực lượng phải kết hợp chặt chẽ với nhau, nhằm tạo ra sức mạnh tổng hợp BVTQ thời kỳ mới. Như vậy, sự phát triển lý luận về xây dựng lực lượng quốc phòng có ý nghĩa quan trọng trong điều chỉnh các mối quan hệ, bổ sung cơ chế phối hợp, hiệp đồng giữa các lực lượng trong sự nghiệp BVTQ.

Bốn là, phát triển lý luận về xây dựng thế trận quốc phòng. Khái niệm về thế trận QPTD ra đời từ Nghị quyết Trung ương 3 (khoá VII). Đó là thế bố trí các lực lượng quốc phòng theo ý định chiến lược, nhằm phát huy cao độ sức mạnh quốc phòng; là cơ sở để gắn kết thế và lực của các lĩnh vực, các ngành có liên quan trong quá trình xây dựng và BVTQ. Khái niệm thế trận QPTD là sự phát triển lý luận về quốc phòng, cụ thể hóa thêm nội dung của nền QPTD; đồng thời, là cơ sở, nền tảng để liên kết và triển khai thế trận của các lĩnh vực khác, như: an ninh, chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội và đối ngoại..., theo một ý định thống nhất. Do vậy, thế trận QPTD bao gồm nhiều thành phần, trên nhiều lĩnh vực và được triển khai xây dựng bằng nhiều giải pháp đồng bộ; trong đó, xây dựng tỉnh (thành phố) thành khu vực phòng thủ vững chắc, liên kết trong thế trận phòng thủ của các quân khu, trên các hướng phòng thủ chiến lược của quốc gia là nội dung rất quan trọng. Cùng với đó, xây dựng, phát triển các khu kinh tế-quốc phòng cũng là thành phần của thế trận QPTD. Đó là những địa bàn nằm trong các khu vực phòng thủ địa phương, thường là những nơi trọng yếu về QP-AN trên biên giới đất liền, biển đảo. Các khu kinh tế-quốc phòng được xây dựng vững chắc, hình thành những mắt xích liên hoàn trong thế trận phòng thủ của từng địa phương, khu vực và cả nước. Tuy nhiên, có những địa bàn trọng điểm về QP-AN nhưng điều kiện phát triển kinh tế rất khó khăn thì cần nghiên cứu xây dựng thành các khu quốc phòng-kinh tế, với quốc phòng là chủ thể. Đây là sự phát triển lý luận về tạo sức mạnh tổng hợp, nghệ thuật kết hợp lực lượng tại chỗ với lực lượng cơ động để BVTQ trong điều kiện mới.

Năm là, phát triển lý luận về  cơ chế lãnh đạo, quản lý, điều hành. Trước hết, đó là việc chuyển từ cơ chế theo Nghị định 165/NĐ-CP sang cơ chế theo Nghị định 19/NĐ-CP về xác định cơ cấu tổ chức lãnh đạo, quản lý, điều hành công tác quốc phòng từ Trung ương đến địa phương. Qua đó, các cơ quan Trung ương đã có những chuyển biến mạnh mẽ cả về nhận thức và tổ chức thực hiện nhiệm vụ BVTQ. Đối với các địa phương, cơ sở đã triển khai vận hành Cơ chế 02 của Bộ Chính trị và khẳng định sự đúng đắn của cơ chế Đảng lãnh đạo, chính quyền điều hành, các cơ quan, ban ngành làm tham mưu và tổ chức thực hiện theo chức năng. Đặc biệt là vị trí, vai trò làm tham mưu, trung tâm hiệp đồng của cơ quan quân sự và công an đối với nhiệm vụ QP-AN ở địa phương. Ngoài ra, sự phát triển lý luận còn được thể hiện ở việc bổ sung, điều chỉnh về cơ cấu tổ chức. Đó là việc tách riêng Đảng uỷ Quân sự, Đảng uỷ Công an trong khu vực phòng thủ tỉnh (thành phố) và cơ cấu bí thư các tỉnh (thành phố) là đảng uỷ viên Đảng uỷ quân khu. Những điều chỉnh đó đã chứng minh cho sự phát triển lý luận về vai trò lãnh đạo của Đảng và hiệu lực quản lý của Nhà nước đối với sự nghiệp xây dựng và BVTQ.

Trong những năm tới, tình hình thế giới, khu vực sẽ tiếp tục diễn biến phức tạp; hoà bình, hợp tác, phát triển vẫn là xu thế lớn, nhưng cạnh tranh giữa các nước sẽ diễn ra gay gắt. Chúng ta đang trong thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước và tiếp tục mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế. Đất nước đang đứng trước thời cơ, vận hội mới, nhưng cũng đang phải đối mặt với những  khó khăn, thách thức lớn. Vì vậy, cần tiếp tục đổi mới cả về tư duy lý luận và tổ chức thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và BVTQ, nhất là nghiên cứu, bổ sung, phát triển một số vấn đề lý luận về BVTQ.

Trước hết, cần tiếp tục nghiên cứu phân biệt rõ bạn, thù, quan hệ giữa đối tượng và đối tác, thù trong với giặc ngoài, đề cao cảnh giác, khắc phục mơ hồ, ảo tưởng. Qua đó, làm rõ hơn khái niệm về BVTQ, về quốc phòng trong tình hình mới; mối quan hệ giữa xây dựng và BVTQ; giữa xây dựng nền QPTD với chuẩn bị CTND; giữa quốc phòng với an ninh, kinh tế và đối ngoại.

Trong xây dựng nền QPTD, cần mở rộng khái niệm về sức mạnh tổng hợp BVTQ, phân biệt giữa sức mạnh với tiềm lực, thực lực và tiềm năng quốc phòng… Trong đó, cần nhận thức đúng về đối tượng, thành phần của lực lượng quốc phòng cũng như yêu cầu xây dựng và sử dụng lực lượng này phù hợp với các nhiệm vụ. Tiếp tục nghiên cứu lý luận về hiện đại hóa lực lượng vũ trang làm nòng cốt trong BVTQ. Có quan niệm mới về ngoại lực khi các đối tác nước ngoài đầu tư ngày càng nhiều vào Việt Nam; đề xuất các giải pháp huy động có hiệu quả nội lực kết hợp với ngoại lực tạo sức mạnh tổng hợp.

Đẩy mạnh nghiên cứu lý luận về xây dựng thế trận, mối quan hệ giữa lực lượng và thế trận QPTD. Trên cơ sở đó, đề xuất những quan điểm và yêu cầu mới trong triển khai, bố trí lực lượng, hình thành thế trận QPTD cơ động, linh hoạt, “đan xen lợi ích” nhằm BVTQ vững chắc trong mọi tình huống.

Nhìn từ Cương lĩnh 1991 cho thấy, lý luận về BVTQ đã có bước phát triển, nhiều nội dung lý luận đã được đổi mới cơ bản, toàn diện và được trải nghiệm qua thực tiễn gần 20 năm qua. Đó là những vấn đề lý luận cần được tổng kết để tiếp tục vận dụng và phát triển trong những thập kỷ tới đối với sự nghiệp xây dựng và BVTQ Việt Nam XHCN.

Đại tá, PGS, TS. Hoàng Xuân Lâm

__________

1- Các nghị quyết của Trung ương Đảng (1996-1999), Nxb. CTQG, H. 2000, tr. 300.

2- Sđd, tr. 306.

3- Kết quả Đại hội X, Nxb. CTQG, H. 2006, tr. 37, 38.

4- ĐCSVN-Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ  IX,  Nxb. CTQG, H. 2001, tr. 40.

 

Ý kiến bạn đọc (0)