QPTD -Thứ Ba, 06/12/2011, 23:34 (GMT+7)
Tiếp tục đổi mới, hoàn thiện Tổ chức bộ máy Nhà nước ngang tầm nhiệm vụ thời kỳ mới

Kiểm điểm 5 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội IX, Đảng ta đánh giá: “Việc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa có tiến bộ trên cả ba lĩnh vực lập pháp, hành pháp và tư pháp”1. Qua nhiều lần kiện toàn, sắp xếp, đổi mới, hệ thống chính trị nước ta nói chung và bộ máy Nhà nước nói riêng đã từng bước hoàn thiện, đem lại kết quả thực tế, tác động tích cực vào tiến trình đổi mới.

Quốc hội có bước đổi mới quan trọng từ khâu bầu cử đại biểu Quốc hội đến hoàn thiện cơ cấu tổ chức và phương thức hoạt động; tăng cường bộ phận chuyên trách; tăng cường quan hệ phối hợp giữa Quốc hội, Uỷ ban Thường vụ Quốc hội với thiết chế trong bộ máy Nhà nước và các thành viên khác của hệ thống chính trị. Việc sửa đổi Hiến pháp năm 1992 và các Luật Tổ chức nhà nước đã tạo cơ sở pháp lý thuận lợi cho tổ chức và hoạt động của Quốc hội theo hướng: mở rộng thẩm quyền, nâng cao chất lượng hoạt động lập pháp và giám sát tối cao hoạt động của bộ máy Nhà nước; hình thành cơ chế tiếp xúc giữa đại biểu Quốc hội với cử tri, tăng cường dân chủ trong sinh hoạt Quốc hội. Hiện nay, Quốc hội hoạt động thường xuyên hơn, ngày càng dân chủ hơn, tranh luận, thảo luận một cách thẳng thắn, thiết thực hơn; các đạo luật ban hành có quy mô, tốc độ, chất lượng phù hợp với thực tiễn; hoạt động giám sát bộ máy Nhà nước được tăng cường và ngày càng giữ vai trò quan trọng. Nhờ đó, hiệu quả và hiệu lực hoạt động của Quốc hội được nâng cao, tạo sự quan tâm và lòng tin của nhân dân.
           
“Chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm của Chính phủ, của các bộ, ngành và chính quyền địa phương các cấp được phân định cụ thể hơn, phân cấp nhiều hơn”2 đã góp phần ổn định chính trị- xã hội, giữ vững quốc phòng an - ninh, mở rộng công tác đối ngoại, tạo môi trường thuận lợi để phát triển kinh tế - xã hội và thúc đẩy tiến trình hội nhập quốc tế. Vai trò, chức năng của Chính phủ, các bộ và cơ quan ngang bộ được điều chỉnh phù hợp hơn với yêu cầu đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phát triển kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế. Cơ cấu tổ chức Chính phủ được đổi mới: so với năm 1986, đầu mối các cơ quan thuộc Chính phủ đã giảm từ 76 xuống còn 39 (20 bộ, 6 cơ quan ngang bộ và 13 cơ quan thuộc Chính phủ); các bộ, ngành cũng từng bước được đổi mới, hoàn thiện cả về tổ chức bộ máy và đội ngũ cán bộ. Tổ chức bộ máy chính quyền cấp tỉnh đã giảm hơn so với năm 1986: ở cấp tỉnh từ 35-40 đầu mối, nay còn 19-25 đầu mối; ở cấp huyện từ 20-25 đầu mối, nay còn 8-12 đầu mối. Chức năng, nhiệm vụ của Chính quyền địa phương được điều chỉnh trên cơ sở có sự phân cấp mạnh giữa Trung ương và địa phương trên một số lĩnh vực. Chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm của tập thể và cá nhân được xác định cụ thể, rõ ràng hơn. Công tác cải cách hành chính có nhiều tiến bộ (đến cuối năm 2004 có 63/64 tỉnh, 564/659 huyện, quận, 1.223/10.751 xã thực hiện cơ chế “một cửa”), giảm phiền hà và thời gian chờ đợi của nhân dân khi có việc liên quan đến cơ quan công quyền.
Tổ chức và hoạt động của các cơ quan tư pháp được kiện toàn và đổi mới một bước. Tổ chức bộ máy Tòa án nhân dân tối cao và cấp tỉnh có một số điều chỉnh; lập mới các tòa án chuyên trách (tòa kinh tế, tòa lao động, tòa hành chính). Tổ chức bộ máy của Viện Kiểm sát nhân dân tối cao có điều chỉnh theo hướng tập trung thực hiện chức năng công tố, chức năng giám sát, giải quyết các vụ án hành chính, kinh tế, lao động và phá sản doanh nghiệp. Quyền hạn xét xử của toà án cấp huyện được tăng cường.
Tuy nhiên, bên cạnh những mặt được, còn một số hạn chế, yếu kém. “Bộ máy Nhà nước chậm đổi mới, chưa theo kịp yêu cầu của công cuộc phát triển kinh tế - xã hội: Những yếu kém của bộ máy quản lý nhà nước và công tác cán bộ chậm được khắc phục. Cải cách hành chính chưa đạt yêu cầu, chưa gắn với xây dựng và chỉnh đốn Đảng, với đổi mới phương thức và nâng cao hiệu quả họat động của Quốc hội, chưa phối hợp chặt chẽ với cải cách tư pháp và đổi mới hoạt động tư pháp... Bộ máy chính quyền cơ sở nhiều nơi còn yếu kém... Mô hình tổ chức chính quyền địa phương, nhất là tổ chức hội đồng nhân dân, còn những điểm bất hợp lý. Cải cách tư pháp mới bước đầu tiến hành”3. Nhiệm vụ, quyền hạn của Quốc hội, nhất là những nhiệm vụ, quyền hạn về quyết định những vấn đề hệ trọng của đất nước quy định chưa hợp lý. Tổ chức bộ máy hành chính nhà nước còn cồng kềnh, hoạt động thiếu nhịp nhàng, thông suốt. Đánh giá những hạn chế qua 20 năm đổi mới trên lĩnh vực hệ thống chính trị, Đảng ta đã chỉ rõ: “Chưa làm sáng tỏ “tính độc lập tương đối” của mỗi quyền, về sự chế ước lẫn nhau giữa các nhánh quyền lực; vấn đề kiểm tra, giám sát quyền lực, bảo đảm quyền lực không bị tha hóa và bị lạm dụng. Còn chưa có nhận thức đầy đủ về vấn đề làm sao để tránh chồng chéo cũng như tránh lạm quyền trong hoạt động của các cơ quan nhà nước; về cơ chế bảo đảm quyền kiểm tra, giám sát của nhân dân đối với hoạt động của Nhà nước... Bộ máy hành chính còn nhiều tầng nhiều nấc làm cho việc quản lý các quá trình kinh tế - xã hội chưa thật nhanh, nhạy và có hiệu quả cao"4.
Do đó, cần tiếp tục đổi mới, hoàn thiện tổ chức bộ máy Nhà nước phù hợp với những yêu cầu mới. Vấn đề đặt ra hiện nay là, cần tập trung đổi mới, hoàn thiện đồng bộ cả 3 yêu cầu “rà soát chức năng, nhiệm vụ; sắp xếp tổ chức, bộ máy; tinh giản biên chế”, với bước đi thích hợp, đảm bảo các yêu cầu cơ bản sau:
Phân định rõ chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm và mối quan hệ giữa các tổ chức, các cơ quan; kiên quyết loại bỏ những tổ chức, những khâu không cần thiết của tổ chức, bộ máy; loại bỏ sự chồng chéo về chức năng, nhiệm vụ của các tổ chức, các cơ quan và trong từng bộ phận ở từng tổ chức, cơ quan; tăng cươờng vai trò lãnh đạo và quản lý tập trung, thống nhất của Trung ươơng, đồng thời mở rộng hơn nữa sự phân cấp cho các địa phương nhằm phát huy tính năng động, chủ động, sáng tạo, trách nhiệm của địa phương, cơ sở.
           
Đổi mới, hoàn thiện tổ chức bộ máy Nhà nước phải coi là nhiệm vụ thươờng xuyên, mang tính quy luật. Quá trình đổi mới, hoàn thiện cần phân tích thật khách quan các điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội, địa lý, tâm lý..., trên cơ sở đó tìm ra lời giải các bài toán về hình thức, phương pháp, cơ chế hoạt động, cơ cấu tổ chức sao cho thích hợp nhất, tránh phiến diện, giản đơn hoặc chủ quan duy ý chí, áp dụng máy móc hình thức tổ chức nơi này sang nơi khác, gây sự rối loạn hay trì trệ, làm giảm sút hiệu lực và hiệu quả hoạt động của tổ chức.
Đổi mới, hoàn thiện tổ chức theo nguyên tắc vì yêu cầu, nhiệm vụ mà xây dựng tổ chức bộ máy phù hợp; mỗi tổ chức, cơ quan và bộ phận hợp thành đều có chức năng và trách nhiệm rõ ràng; mỗi phần việc đều có cơ quan và bộ phận phụ trách chính; tinh giản đầu mối để khắc phục sự trùng lắp về chức năng, nhiệm vụ nhưng không để trống, bỏ sót việc; bổ sung hoàn chỉnh quy chế, điều lệ hoạt động của các tổ chức, cơ quan nhằm nâng cao chất lượng và tạo điều kiện để tinh giản bộ máy và biên chế.
Bám sát những yêu cầu đó, thời gian tới việc đổi mới, hoàn thiện tổ chức bộ máy Nhà nước cần tập trung vào một số nội dung sau:
Đổi mới, hoàn thiện tổ chức của Quốc hội theo hướng phân biệt rõ quyền lập pháp của Quốc hội và quyền lập quy của Chính phủ. Để bảo đảm Quốc hội ban hành nhanh chóng, có chất lượng các đạo luật, Quốc hội cần hướng hoạt động nhiều hơn vào việc lập và quyết định chương trình xây dựng luật, pháp lệnh; xác định rõ hơn phạm vi, thẩm quyền, nội dung lập pháp của Quốc hội; phân biệt rõ vấn đề nào cần phải quy định thành đạo luật, vấn đề nào ban hành bằng nghị định của Chính phủ. Nghiên cứu đề án hình thành các cơ quan có chức năng kiểm tra tư pháp tính hợp hiến của các đạo luật, hoạt động của các cơ quan công quyền, cán bộ, công chức và bảo vệ quyền lợi chính đáng công dân theo Hiến pháp và luật định như: Uỷ ban Hiến pháp, Toà án Hiến pháp, Hội đồng giám sát, Uỷ ban bảo hộ các quyền công dân...
Thành lập các uỷ ban của Quốc hội đủ về số lượng, bảo đảm mỗi ủy ban phụ trách một lĩnh vực nhất định, khắc phục tình trạng để một ủy ban phải phụ trách nhiều lĩnh vực, khó bao quát hết được các mặt hoạt động của Quốc hội, nhất là lĩnh vực hoạt động giám sát đối với Chính phủ, đối với các cơ quan tư pháp và tăng cường năng lực lập pháp của Quốc hội. Tăng hợp lý số lượng đại biểu Quốc hội hoạt động chuyên trách. Bên cạnh đảm bảo tính chất của Quốc hội là cơ quan đại biểu dân cử, cơ quan đại diện quyền lực và là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất, còn phải đảm bảo để Quốc hội phải là cơ quan chuyên nghiệp - làm luật. Hoạt động lập pháp của Quốc hội phải thực sự đi vào kỹ thuật lập pháp, thảo luận sâu sắc từng lĩnh vực xã hội. Muốn vậy, đại biểu Quốc hội không chỉ đảm bảo đồng bộ về cơ cấu (tuổi, giới tính, dân tộc, thành phần giai cấp và đại diện các vùng, miền) mà còn phải đảm bảo một tỷ lệ đại biểu chuyên trách, gồm những đại biểu có hiểu biết về pháp luật, trình độ học vấn cao, am hiểu nhiều lĩnh vực khác nhau của đời sống chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội và hội đủ những phẩm chất chính trị, đạo đức công vụ cần thiết mới có thể có những đóng góp thật sự vào các quyết sách quốc kế dân sinh. Đồng thời, đẩy mạnh ứng dụng những thành tựu mới của khoa học, công nghệ, nhất là công nghệ thông tin phục vụ cho các hoạt động của Quốc hội.
           
Đổi mới, hoàn thiện cơ cấu tổ chức của Chính phủ và chính quyền địa phương theo hướng đề cao tính chủ động, chịu trách nhiệm của Chính phủ trước những công việc hệ trọng của đất nước, trong việc lãnh đạo nền hành chính Nhà nước, tổ chức bộ máy, biên chế, tiền lương...; tăng cường thẩm quyền của Chính phủ trong việc quyết định các chương trình, dự án quốc gia, đàm phán, ký kết các điều ước quốc tế với chính phủ các nước. “Tiếp tục đổi mới tổ chức và hoạt động của Chính phủ theo hướng xây dựng nền hành pháp thống nhất, thông suốt, đặt trong tổng thể một hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh... tổ chức bộ quản lý đa ngành, đa lĩnh vực, bảo đảm tinh gọn và hợp lý. Không tổ chức cơ quan thuộc Chính phủ (tổng cục...) có chức năng quản lý nhà nước. Nghiên cứu thành lập cơ quan tài phán hành chính để giải quyết các khiếu kiện hành chính. Thực hiện việc phân cấp mạnh, hợp lý cho chính quyền địa phương, giao quyền chủ động hơn nữa cho địa phương, nhất là trong việc giải quyết về ngân sách, tài chính, đầu tư, nguồn nhân lực, thực hiện nghĩa vụ tài chính đối với Trung ương”5. Theo hướng này, điều chỉnh cơ cấu tổ chức bộ máy Chính phủ gọn về đầu mối, chủ yếu gồm các bộ quản lý đa ngành, đa lĩnh vực và chỉ thành lập một số bộ đơn ngành đối với những ngành, những lĩnh vực mũi nhọn, chiến lược, đòi hỏi phải có sự quản lý, điều hành tập trung, ưu tiên như kinh tế, an ninh, quốc phòng, tư pháp, ngoại giao.... Giảm bớt đầu mối các cơ quan thuộc Chính phủ theo hướng nhập các cơ quan có chức năng quản lý nhà nước vào các bộ và chuyển một số tổ chức sự nghiệp về trực thuộc các bộ.
Tăng cường vai trò của Thủ tướng với tư cách là người đứng đầu Chính phủ, đồng thời với việc quy định rõ hơn trách nhiệm của cá nhân Thủ tướng và các thành viên Chính phủ trước Quốc hội: đối với trách nhiệm của Thủ tướng trước Quốc hội, cần quy định rõ hình thức trách nhiệm cụ thể và trình tự xử lý trách nhiệm; đối với các thành viên khác của Chính phủ, cần quy định rõ hơn cơ sở và thủ tục xem xét trách nhiệm. Nghiên cứu đề án thiết lập hệ thống cơ quan chính quyền địa phương đa dạng, tùy thuộc vào nhu cầu quản lý, tính chất của từng loại đơn vị hành chính, phân biệt sự khác nhau giữa mô hình tổ chức của chính quyền đô thị với chính quyền nông thôn. Phân định rõ hơn chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của các cấp chính quyền tỉnh, huyện, xã trên cơ sở: tách bạch chức năng quản lý nhà nước với quản lý kinh doanh và quản lý sự nghiệp, dịch vụ công; đẩy mạnh phân cấp quản lý giữa Trung ương với địa phương và giữa 3 cấp chính quyền địa phương. Xác định rõ ràng trách nhiệm của tập thể và cá nhân người đứng đầu, đảm bảo những công việc quan trọng phải được bàn bạc và quyết định tập thể, đồng thời vẫn phát huy được tính tự chủ, năng động, sáng tạo trong chỉ đạo công việc của người đứng đầu. Nghiên cứu chuyển một số cấp Hội đồng nhân dân, trước hết là Hội đồng nhân dân cấp xã, phường, thị trấn sang chế độ chính quyền tự quản, đại diện cho ý chí, nguyện vọng của nhân dân, do nhân dân bầu ra và chịu trách nhiệm trước nhân dân, trước chính quyền cấp trên và pháp luật. Thiết lập được cơ chế kiểm soát có hiệu quả hoạt động của chính quyền địa phương các cấp.
Đổi mới, hoàn thiện cơ cấu tổ chức của các cơ quan tư pháp, "Xây dựng một nền tư pháp trong sạch, vững mạnh, dân chủ, nghiêm minh, bảo vệ công lý, quyền con người”6, đổi mới cơ cấu tổ chức các cơ quan tư pháp cần tập trung vào: xác định rõ cơ cấu tổ chức bộ máy, chức năng, nhiệm vụ; mối quan hệ giữa các cơ quan trong hệ thống tư pháp. Kiến nghị, hướng đổi mới: Mở rộng thẩm quyền của các cơ quan tư pháp, đảm bảo “mọi tranh chấp đều được nhân dân giải quyết ở tòa án, tìm chỗ dựa ở các cơ quan tư pháp”; Đơn giản hóa các thủ tục tố tụng đối với những vụ án đơn giản, các tình tiết pháp lý đã quá rõ ràng, đảm bảo sự phán quyết phân xử không những chính xác, đúng pháp luật mà còn nhanh chóng, tiện lợi, tiết kiệm được thời gian, tiền bạc của nhà nước và nhân dân...;
           
Hoàn thiện cơ sở pháp lý cho tổ chức và hoạt động của tòa án; mô hình tổ chức tòa án nhân dân đổi mới theo hướng: theo nguyên tắc hai cấp xét xử và tổ chức tòa án theo thẩm quyền; khi xét xử, thẩm phán và hội thẩm nhân dân độc lập và chỉ tuân theo pháp luật. Đã tới lúc cần nghĩ tới việc thành lập bên cạnh hệ thống tòa án chung một cơ quan tài phán chuyên trách hoạt động tố tụng tư pháp về Hiến pháp, nhằm đảm bảo cho việc thực thi có hiệu quả chế định kiểm tra Hiến pháp của quyền tư pháp, trên cơ sở tham khảo kinh nghiệm tổ chức và thực tiễn hoạt động của Tòa án Hiến pháp Cộng hòa liên bang Nga hay Hội đồng Bảo hiến ở Cộng hòa Pháp... Tổ chức lại các cơ quan điều tra theo hướng thu gọn đầu mối. Nghiên cứu đề án “Thống nhất hệ thống các cơ quan điều tra”. Việc thành lập một hệ thống cơ quan điều tra nhằm đảm bảo cho cơ quan này hoạt động một cách độc lập, các điều tra viên làm việc chỉ tuân theo pháp luật; khắc phục cơ bản tình trạng “vừa đá bóng, vừa thổi còi"; đảm bảo tính chuyên sâu, nhanh nhạy của các cơ quan điều tra, đồng thời chú trọng nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ của các điều tra viên.
 
TS. Trần Hậu Thành
Ban Tổ chức Trung ương
 
1, 2 - Đảng Cộng sản Việt Nam - Dự thảo các văn kiện trình Đại hội X, tháng 9 - 2005, tr. 6.
3- Đảng Cộng sản Việt Nam - Dự thảo các văn kiện trình Đại hội X  của Đảng, tháng 9 - 2005, tr. 79; 9.
4- Đảng Cộng sản Việt Nam - Báo cáo Tổng kết... qua 20 năm đổi mới, Nxb. CTQG, H. 2005, tr.117-118.
5- Đảng Cộng sản Việt Nam - Dự thảo các văn kiện trình Đại hội X  của Đảng, tháng 9 - 2005, tr. 47.
6- Đảng Cộng sản Việt Nam - Dự thảo các văn kiện trình Đại hội X  của Đảng, tháng 9 - 2005, tr. 47.

 

Ý kiến bạn đọc (0)