QPTD -Thứ Tư, 30/11/2011, 23:39 (GMT+7)
Tiếp tục đổi mới giáo dục - đào tạo, phát triển nguồn nhân lực cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc
Trong chiến lược phát triển, Đảng, Nhà nước ta hết sức quan tâm, chăm lo đến  công tác giáo dục và đào tạo (GD-ĐT), phát triển nguồn nhân lực có đủ đức, tài, phục vụ cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; coi đây là nhiệm vụ chiến lược thường xuyên, trọng yếu của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân. Thực hiện đường lối đổi mới của Đảng, trong hơn 20 qua, nền giáo dục nước ta đã đổi mới toàn diện và “đạt được những thành tựu to lớn có ý nghĩa về phát triển quy mô, tạo chuyển biến bước đầu về chất lượng, củng cố và tăng cường các điều kiện tác động trực tiếp đến phát triển giáo dục”. Hệ thống GD - ĐT của đất nước đã cung cấp cho xã hội hàng chục vạn cán bộ, nhân viên chuyên môn kỹ thuật, thuộc các ngành, nghề, có phẩm chất chính trị, năng lực, trình độ chuyên môn, đáp ứng tốt yêu cầu nhiệm vụ đổi mới, phát triển kinh tế-xã hội, củng cố quốc phòng, an ninh, bảo vệ Tổ quốc. Chúng ta đã xây dựng được Luật Giáo dục (năm 1998 và sửa đổi năm 2005); xây dựng “Chiến lược phát triển giáo dục 2001-2010”.... làm cơ sở  pháp lý cho việc từng bước thể chế hoá, pháp chế hoá, đưa nền giáo dục nước nhà phát triển theo hướng “chuẩn hoá, hiện đại hoá, xã hội hoá”. Dựa trên Luật Giáo dục, hệ thống GD-ĐT đã được điều chỉnh hợp lý về cơ cấu cấp học, bậc học, ngành nghề, vùng miền; đổi mới về nội dung, chương trình, sách giáo khoa, phương pháp dạy, học..., nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện (cả đức dục, trí dục, thể dục, mỹ dục) trên cả ba mặt: nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài. Tính đến hết năm 2005, cả nước đã có 30 tỉnh đạt tiêu chuẩn phổ cập trung học cơ sở (THCS) ; tỷ lệ người biết chữ trong độ tuổi 15 đến 35 tăng từ 94% năm 2000 lên 96%. Số sinh viên đại học và cao đẳng tăng 8,4%/ năm; số học sinh trung cấp chuyên nghiệp tăng 15,1%/ năm và dạy nghề dài hạn tăng 12%/ năm. Đầu tư cho sự nghiệp GD- ĐT tăng lên đáng kể. Năm 2007, tổng chi cho GD - ĐT ước khoảng trên 66.770 tỷ đồng, chiếm khoảng 20% tổng chi ngân sách Nhà nước. Cùng với đó, đã huy động được nhiều nguồn vốn khác để phát triển giáo dục, thông qua phát hành công trái giáo dục, đóng góp của các doanh nghiệp, vốn đầu tư từ nước ngoài. Công tác giáo dục quốc phòng (GDQP) trong các nhà trường từng bước đi vào nền nếp, thu được kết quả thiết thực. Đến nay, về cơ bản, toàn Ngành đã hoàn thiện hệ thống quản lý các cấp, xây dựng đội ngũ giáo viên, hệ thống giáo trình, chương trình, nội dung, các trang thiết bị giảng dạy, học tập môn GDQP phù hợp với từng cấp học, bậc học. Phương pháp GDQP cũng được vận dụng đa dạng, kết hợp giữa giáo dục tại nhà trường, tại các trung tâm GDQP với lồng ghép các hoạt động văn hoá, văn nghệ, thể dục, thể thao..., tạo chuyển biến tích cực về nhận thức, ý thức trách nhiệm của học sinh, sinh viên đối với nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc.

Bước vào giai đoạn mới, nhất là khi nước ta là thành viên của WTO, công tác GD - ĐT sẽ có nhiều thời cơ thuận lợi mới. Trước hết là, chúng ta có điều kiện tiếp cận với những nguồn tri thức và thông tin phong phú, phục vụ cho nâng cao chất lượng giảng dạy, nghiên cứu, học tập. Tiếp thu kinh nghiệm quản lý, phát triển giáo dục của các nước tiên tiến, từ đó vận dụng phù hợp với điều kiện của nước ta để phát triển hệ thống giáo dục theo hướng "chuẩn hoá, hiện đại hoá, xã hội hoá"; đồng thời, tăng cường các điều kiện đảm bảo chất lượng, tiếp nhận các chuẩn quốc tế, sớm đưa giáo dục nước ta lên trình độ tiên tiến... Tuy nhiên, bên cạnh những thuận lợi, giáo dục nước ta sẽ đứng trước nhiều thách thức to lớn. Đó là do trình độ của nền kinh tế, khoa học-công nghệ của nước ta còn thấp, nên khó cạnh tranh với sự thu hút và thâm nhập của giáo dục nước ngoài, nhất là giáo dục ở bậc đại học và sau đại học. Quan trọng hơn là trong quá trình hội nhập, chúng ta vừa tiếp thu những tinh hoa, trí tuệ của nhân loại, vừa phải giữ vững độc lập tự chủ, định hướng XHCN, bảo đảm được các mục tiêu xã hội hoá giáo dục, công bằng xã hội trong giáo dục, bảo vệ quyền lợi của người học, lợi ích giáo dục của quốc gia, giữ gìn và phát huy những giá trị và bản sắc văn hoá dân tộc. Đây là nhiệm vụ hết sức nặng nề, phức tạp. Cùng với đó, sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc XHCN đang đặt ra những yêu cầu mới nặng nề hơn, mà Đại hội X của Đảng đã chỉ rõ là “bảo vệ vững chắc Tổ quốc, độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ; bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ XHCN; bảo vệ an ninh chính trị, an ninh kinh tế, an ninh tư tưởng văn hoá và an ninh xã hội; duy trì trật tự, kỷ cương, an toàn xã hội; giữ vững ổn định chính trị của đất nước, ngăn ngừa, đẩy lùi và làm thất bại mọi âm mưu, hoạt động chống phá, thù địch, không để bị động, bị bất ngờ”.

Để thực hiện tốt nhiệm vụ, ngành GD-ĐT phải tập trung làm tốt một số nội dung chủ yếu sau:
1-Tiếp tục quán triệt và triển khai thực hiện nghiêm túc quan điểm, đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước về GD-ĐT, phát triển nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc thời kỳ mới. Đảng ta khẳng định: GD - ĐT cùng với khoa học và công nghệ là quốc sách hàng đầu, là nền tảng và động lực thúc đẩy CNH, HĐH đất nước. Phải coi đầu tư  cho giáo dục là một hướng chính của đầu tư phát triển. Phát triển GD-ĐT nhằm nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài; bồi dưỡng, đào tạo những con người vừa có bản lĩnh, cốt cách, tâm hồn Việt Nam, gắn bó với CNXH, với quá trình phát triển của đất nước, vừa có kiến thức văn hoá, khoa học, có kỹ năng nghề nghiệp ngang tầm thời đại. Đổi mới, phát triển GD-ĐT phải phục vụ tốt hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Như vậy, hiện nay và trong giai đoạn tới, đào tạo nguồn nhân lực vừa là mục tiêu vừa là yêu cầu bức xúc của sự nghiệp đổi mới, CNH, HĐH, hội nhập kinh tế quốc tế, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc của nước ta. Điều đó đòi hỏi ngành GD-ĐT phải tiếp tục đổi mới cơ bản và phát triển toàn diện; cùng với việc cung cấp kiến thức văn hoá, khoa học-công nghệ, phải góp phần bồi dưỡng các giá trị văn hoá cho học sinh, sinh viên, nhất là lý tưởng độc lập dân tộc và CNXH, lối sống, năng lực trí tuệ, phẩm chất đạo đức, cốt cách con người Việt Nam. Những năm qua, bên cạnh những nỗ lực, cố gắng, đóng góp tích cực cho sự nghiệp trồng người của nước nhà, ngành GD - ĐT cũng bộc lộ nhiều bất cập, khiếm khuyết, như chất lượng GD-ĐT còn thấp; quản lý nhà nước đối với một số lĩnh vực trong GD-ĐT còn yếu kém; khả năng chủ động, sáng tạo của học sinh, sinh viên ít được bồi dưỡng; năng lực thực hành còn yếu;...; công tác quản lý GD-ĐT chậm đổi mới và còn nhiều bất cập; những hiện tượng tiêu cực, như bệnh thành tích, thiếu trung thực trong đánh giá kết quả học tập, tuyển sinh, thi cử, cấp bằng và tình trạng học thêm, dạy thêm tràn lan, kéo dài, chậm được khắc phục. Vì thế, kiên quyết loại trừ các hiện tượng tiêu cực, làm lành mạnh hoá nền giáo dục, xây dựng nền giáo dục nước nhà phát triển bền vững là nhiệm vụ cấp bách hiện nay của cả nước và của ngành GD-ĐT. Theo đó,  Ngành phải nghiêm túc thực hiện tốt Chỉ thị số 33/2006/CT-TTg của Thủ tướng Chính phủ về “chống tiêu cực và khắc phục bệnh thành tích trong giáo dục"; trên cơ sở đó, tiếp tục đẩy mạnh cuộc vận động “nói không với tiêu cực trong thi cử và bệnh thành tích trong giáo dục”, “nói không với học sinh ngồi nhầm lớp và vi phạm đạo đức nhà giáo”, nhằm tạo sự chuyển biến tích cực, sâu rộng về nhận thức, tư tưởng và hành động của đội ngũ cán bộ, công chức, thầy cô giáo và học sinh, sinh viên, thiết thực phục vụ cho sự nghiệp xây dựng ngành GD-ĐT vững mạnh, xây dựng nền giáo dục Việt Nam tiên tiến, xây dựng con người Việt Nam thế kỷ 21.
2- Hoàn thiện công tác quản lý, đổi mới cơ cấu tổ chức, nội dung, chương trình và phương pháp GD- ĐT, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ giáo dục thời kỳ mới. Yêu cầu cấp bách hiện nay là phải tập trung hoàn thiện thể chế giáo dục theo tinh thần cải cách hành chính, bảo đảm hiệu lực và hiệu quả của pháp chế XHCN trong lĩnh vực GD-ĐT; tăng cường quyền tự chủ và trách nhiệm xã hội của nhà trường đi đôi với đẩy mạnh công tác thanh tra, kiểm tra. Phát huy dân chủ trong thực hiện và giám sát việc thực hiện các chủ trương, chính sách, chế độ về GD-ĐT, bảo đảm tính công khai, minh bạch, công bằng trong huy động và sử dụng các nguồn lực đầu tư cho GD-ĐT. Khẩn trương nghiên cứu và tiến hành đổi mới một cách đồng bộ công tác quản lý chất lượng GD-ĐT; tiếp thu có chọn lọc các phương thức quản lý hiện đại, phù hợp với thực tiễn nước ta. Xây dựng và hoàn thiện hệ thống chuẩn quốc gia về GD-ĐT, làm cơ sở để thống nhất trong toàn Ngành về công tác kiển tra, đánh giá kết quả và đảm bảo chất lượng ở tất cả các khâu trong quá trình GD-ĐT và đối với mọi loại hình nhà trường.
Chuyển dần mô hình giáo dục hiện nay sang mô hình giáo dục mở- mô hình xã hội học tập, học tập suốt đời với hệ thống đào tạo liên tục, liên thông giữa các bậc học, ngành học; xây dựng và phát triển hệ thống học tập cho mọi người với những hình thức học tập linh hoạt, đáp ứng nhu cầu học tập thường xuyên. Đổi mới hệ thống giáo dục, làm cho GD- ĐT không bị bó hẹp trong nhà trường; tổ chức đào tạo liên thông; linh hoạt, tạo điều kiện để mọi người được học những gì cần học, học thường xuyên, liên tục, đáp ứng nhu cầu của người dân và của xã hội.
Đẩy mạnh việc thực hiện Quyết định 161/2002/QĐ-TTg của Chính phủ về phát triển giáo dục mầm non. Tách trường liên cấp, xây dựng thêm các trường ở địa bàn đông dân cư. Tiếp tục đổi mới nội dung, phương pháp giáo dục ở bậc phổ thông, đặc biệt chú ý điều chỉnh phương án phân ban kết hợp với dạy học tự chọn ở trung học phổ thông, trong đó, chú trọng tất cả các khâu: biên soạn tài liệu, tập huấn, bồi dưỡng giáo viên và kiểm tra đánh giá, điều chỉnh, bổ sung. Củng cố, mở rộng các trường phổ thông dân tộc nội trú và bán trú, phát triển các trung tâm học tập cộng đồng ở địa phương. Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin và truyền thông giáo dục, khẩn trương triển khai chương trình nguồn nhân lực về công nghệ thông tin từ nay đến 2010 và đề án dạy tin học trong trường phổ thông.
Đối với hệ thống giáo dục đại học (GDĐH) và sau đại học, tập trung hoàn thiện chương trình khung theo hướng chuẩn hoá, hiện đại hoá và đào tạo liên thông. Kết hợp đào tạo với nghiên cứu khoa học, chuyển giao công nghệ, gắn đào tạo với thực tiễn sản xuất, kinh doanh, với yêu cầu nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc. Đẩy mạnh việc thực hiện Nghị quyết 14 của Thủ tướng Chính phủ về đổi mới cơ bản và toàn diện GDĐH trong giai đoạn 2006-2020; triển khai 9 chương trình trọng điểm: phát triển các chương trình đào tạo ĐH đạt trình độ tiên tiến; hình thành các trường ĐH có trình độ quốc tế; chương trình đào tạo 20.000 tiến sỹ và bồi dưỡng cán bộ lãnh đạo các trường ĐH; hoàn thiện mạng lưới các cơ sở GDĐH trên toàn quốc; chương trình 10 năm nâng cao hiệu quả, chất lượng đào tạo và sử dụng tiếng Anh ở Việt Nam; đổi mới phương thức triển khai hoạt động KH-CN; nâng cao chất lượng đào tạo, mở rộng hợp tác quốc tế; đổi mới cơ chế tài chính trong GDĐH...
Tăng cường giáo dục toàn diện cho học sinh, sinh viên, trong đó chú trọng giáo dục chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống; phát huy tính chủ động, năng động, sáng tạo, năng lực tự học tập, tự nghiên cứu. Kết hợp chặt chẽ giữa nhà trường, gia đình, cộng đồng trong việc GD - ĐT học sinh, sinh viên. Đẩy mạnh cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”, phong trào xây dựng đời sống văn hoá trong các trường học, tăng cường giáo dục pháp luật, thực hiện các biện pháp phòng chống các tệ nạn xã hội, đảm bảo trật tự, an toàn trong nhà trường, xây dựng môi trường giáo dục lành mạnh. Tích cực đổi mới nội dung, chương trình, phương pháp GDQP, nhất là ở bậc đại học và sau đại học, để đảm bảo đến năm 2010 phải đạt 4 chuẩn: chuẩn về chương trình, tài liệu, giáo trình; chuẩn về đội ngũ giáo viên; chuẩn về thiết bị, học cụ; tiến tới chuẩn về chất lượng đào tạo. Phấn đấu hoàn thành tốt nhiệm vụ quân sự, quốc phòng của Ngành, nhất là chương trình bồi dưỡng kiến thức quốc phòng-an ninh cho cán bộ chủ trì, quản lý các cấp, giáo viên; các kế hoạch, phương án động viên Ngành cho nhiệm vụ quốc phòng, quân sự khi đất nước có chiến tranh. 
Đẩy mạnh thực hiện xã hội hoá giáo dục nhằm tăng cường vai trò quản lý của Nhà nước; đồng thời huy động tối đa sự đóng góp vật chất và trí tuệ của toàn dân chăm lo cho sự nghiệp giáo dục, phát triển nguồn nhân lực .
3- Nâng cao chất lượng đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục. Đây là khâu then chốt quyết định đến chất lượng đào tạo nguồn nhân lực.  Yêu cầu trước mắt là tiếp tục nghiên cứu, triển khai thực hiện Chỉ thị 40/CT-TW của Ban Bí thư và Quyết định số 09/2005/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ về “Xây dựng, nâng cao chất lượng đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý”, nhằm xây dựng đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục được chuẩn hoá, bảo đảm chất lượng, đủ về số lượng, đồng bộ về cơ cấu; đặc biệt, chú trọng nâng cao phẩm chất, lối sống, năng lực chuyên môn nghiệp vụ, trình độ sư phạm, ý thức, tinh thần trách nhiệm. Tham mưu, đề xuất cho Chính phủ, cho Bộ GD - ĐT các sáng kiến trong công tác đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao trình độ chuyên môn, chất lượng nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục. Tăng cường kỷ cương, nền nếp trong các nhà trường sư phạm và cơ quan quản lý giáo dục; xây dựng các tiêu chuẩn, tiêu chí đánh giá chất lượng GD-ĐT sát với từng loại hình, từng công việc và lĩnh vực, Kiên quyết ngăn chặn và đẩy lùi các biểu hiện tiêu cực trong ngành GD-ĐT. Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng trong việc xây dựng đội ngũ nhà giáo, cán bộ quản lý giáo dục, nhất là đẩy mạnh việc thực hiện Chỉ thị số 34-CT/TW của Bộ Chính trị (khoá VIII) về tăng cường công tác chính trị tư tưởng, củng cố tổ chức Đảng, đoàn thể quần chúng và phát triển Đảng trong trường học.
Hoàn thiện và trình Chính phủ phê duyệt Đề án chế độ tiền lương mới đối với nhà giáo để chăm sóc tốt hơn đời sống của giáo viên, tạo điều kiện cho họ yên tâm công tác, đáp ứng các yêu cầu cao hơn về đạo đức, trách nhiệm và chuyên môn nghiệp vụ cho sự nghiệp trồng người nói riêng, cho sự nghiệp đổi mới, CNH, HĐH, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc XHCN nói chung.
Bành Tiến Long
Ủy viên Ban Cán sự Đảng
Thứ trưởng Thường trực Bộ Giáo dục và Đào tạo
 

Ý kiến bạn đọc (0)