QPTD -Thứ Ba, 09/08/2011, 22:52 (GMT+7)
Thực hiện Pháp lệnh Dân quân tự vệ và Pháp lệnh về lực lượng Dự bị động viên ở Bến Tre

Những năm qua, cùng với việc tập trung phát triển kinh tế-xã hội, chuyển dịch nhanh cơ cấu kinh tế theo hướng hiện đại, từng bước cải thiện và nâng cao đời sống vật chất, văn hóa, tinh thần cho nhân dân, tỉnh Bến Tre thường xuyên quan tâm thực hiện tốt công tác quốc phòng, an ninh. Đặc biệt, sau khi Nhà nước ban hành Pháp lệnh Dân quân tự vệ (DQTV), Pháp lệnh về lực lượng Dự bị động viên (DBĐV), Tỉnh ủy, Ủy ban nhân dân (UBND) Tỉnh đã tập trung lãnh đạo, chỉ đạo các cấp ủy, chính quyền địa phương, các cơ quan, đoàn thể tổ chức quán triệt và triển khai thực hiện nghiêm túc. Ngay sau khi Pháp lệnh có hiệu lực, Bộ Chỉ huy Quân sự Tỉnh đã chủ động tham mưu giúp Tỉnh ủy, UBND Tỉnh ban hành các văn bản lãnh đạo, chỉ đạo cấp ủy, chính quyền các cấp, các ngành trong Tỉnh thực hiện; xác định rõ việc thực hiện Pháp lệnh là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị và của toàn dân; phân công rõ nhiệm vụ, trách nhiệm của các ban, ngành, đoàn thể và thống nhất phương thức phối hợp hoạt động.

Để đưa Pháp lệnh DQTV và Pháp lệnh về lực lượng DBĐV vào cuộc sống, Tỉnh giao nhiệm vụ cho cơ quan quân sự chủ trì phối hợp cùng các lực lượng công an, biên phòng Tỉnh nắm tình hình trật tự, an ninh; tổ chức tuần tra nội địa, trên biển, canh gác, phòng chống tội phạm, bảo vệ an toàn các mục tiêu quan trọng về quốc phòng, an ninh. Đồng thời, phối hợp với Đoàn Thanh niên, ngành Tư pháp trong tuyên truyền, giáo dục nhân dân chấp hành các chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật Nhà nước, thực hiện tốt Pháp lệnh DQTV và Pháp lệnh về lực lượng DBĐV; phối hợp với Hội Cựu chiến binh và các ngành chức năng tổ chức tuyên truyền, giáo dục lòng yêu nước, truyền thống cách mạng, vận động quần chúng nâng cao cảnh giác trước những âm mưu, thủ đoạn thâm độc của các thế lực thù địch…

Trong tổ chức thực hiện, Bến Tre luôn giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, sự chỉ đạo, điều hành của chính quyền các cấp đối với lực lượng DQTV và lực lượng DBĐV. Trên cơ sở bám sát nội dung các chỉ thị, hướng dẫn của Chính phủ, Bộ Quốc phòng, Bộ Tư lệnh Quân khu 9, Thường vụ Tỉnh ủy chỉ đạo các cấp ủy (từ Tỉnh đến cơ sở) xây dựng nghị quyết chuyên đề của cấp mình để lãnh đạo địa phương, đơn vị triển khai công tác xây dựng lực lượng DQTV và lực lượng DBĐV theo đúng Pháp lệnh quy định. Đồng thời, yêu cầu các ngành, các cấp đưa kết quả thực hiện Pháp lệnh vào đánh giá, kiểm điểm theo chức trách, làm cơ sở bình xét cơ quan, đơn vị vững mạnh toàn diện, tổ chức đảng trong sạch, vững mạnh hằng năm. Cùng với đó, UBND Tỉnh chỉ đạo cơ quan chức năng phân cấp tổ chức các lớp bồi dưỡng, tập huấn cho cán bộ chủ chốt các cấp, các ngành, các địa phương, đơn vị về các nội dung của hai Pháp lệnh trên. Thời gian qua, toàn Tỉnh đã tổ chức học tập, quán triệt các chỉ thị, hướng dẫn của trên cho gần 14 nghìn lượt người thuộc các ngành, đoàn thể và khoảng 39 nghìn lượt người là hội viên thuộc các tổ chức kinh tế, xã hội. Nhờ vậy, đội ngũ cán bộ, công chức đã nêu cao vai trò, trách nhiệm trong lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành thực hiện các Pháp lệnh; từng bước khắc phục nhận thức cho rằng: công tác xây dựng lực lượng DQTV và lực lượng DBĐV là nhiệm vụ, trách nhiệm của ngành quân sự. Đồng thời, Tỉnh chỉ đạo các lực lượng phối hợp chặt chẽ trong tổ chức quán triệt, tuyên truyền, phổ biến nội dung Pháp lệnh DQTV và DBĐV, các chỉ thị, hướng dẫn của cấp trên cho toàn dân, thông qua các phương tiện thông tin đại chúng, như: đài phát thanh, truyền hình, hệ thống báo chí… một cách có hiệu quả. Kết quả đó tạo thuận lợi cho cơ quan quân sự thực hiện tốt vai trò tham mưu cho cấp ủy, chính quyền các cấp về công tác quốc phòng, quân sự địa phương.

Đến nay, tổ chức, biên chế các đơn vị DQTV của Tỉnh được duy trì theo đúng quy định, cơ cấu thành phần cân đối, phù hợp với khả năng, nhiệm vụ quốc phòng-an ninh của từng địa phương, cơ sở. Cấp huyện, thị xã có trung đội dân quân binh chủng chiến đấu; cấp xã, phường có trung đội dân quân cơ động, tổ dân quân binh chủng chiến đấu và binh chủng bảo đảm; ở ấp, khu phố có tiểu đội dân quân tại chỗ; ở các xã ven biển, tổ chức các đơn vị DQTV biển; khối cơ quan, doanh nghiệp đều thành lập đơn vị tự vệ từ cấp tiểu đội đến cấp trung đội. Đến cuối tháng 12-2008, tỷ lệ DQTV của Bến Tre đạt 1,62% so với dân số; đảng viên đạt 17,67%, đoàn viên đạt 73,51%; các xã, phường đều thành lập chi bộ quân sự, trong đó chi bộ có chi ủy đạt hơn 47%. Công tác sẵn sàng chiến đấu (SSCĐ) tại chỗ của lực lượng DQTV không ngừng được nâng cao; làm tốt chức năng tham mưu giúp cấp ủy, chính quyền cơ sở có biện pháp xử lý, kịp thời ngăn chặn các loại tội phạm; đồng thời, cùng lực lượng công an, biên phòng… nắm chắc tình hình địa bàn, vùng biển, phòng ngừa, đấu tranh có hiệu quả với những âm mưu, thủ đoạn trong chiến lược “Diễn biến hòa bình”, bạo loạn lật đổ của các thế lực thù địch, phản động ở từng địa phương, cơ sở.

Bến Tre có bờ biển dài khoảng 65 km và 4 cửa sông lớn của các nhánh sông Cửu Long đổ ra biển Đông, tạo cho Tỉnh có vị trí quan trọng trong thế phòng thủ chung của Quân khu 9, đặc biệt là trên hướng biển. Vì vậy, trong quá trình thực hiện Pháp lệnh DQTV, Tỉnh luôn quan tâm xây dựng, củng cố lực lượng DQTV biển thuộc các xã ven biển của 3 huyện Bình Đại, Ba Tri và Thạnh Phú. Phấn đấu đến năm 2010, Tỉnh hoàn thành xây dựng lực lượng DQTV biển theo Đề án “Xây dựng lực lượng DQTV biển tỉnh Bến Tre giai đoạn 2008-2010”. Cùng với đó, Tỉnh chủ động phối hợp hoạt động với Vùng 5 Hải quân, Vùng 5 Cảnh sát biển, Bộ Chỉ huy Bộ đội Biên phòng Tỉnh, Công an Tỉnh…, thực hiện tốt vai trò quản lý nhà nước trên vùng biển của Tỉnh và biển, đảo vùng Tây Nam.

Công tác đăng ký, quản lý lực lượng DBĐV được duy trì thường xuyên, chặt chẽ, luôn bảo đảm yêu cầu về tổ chức, biên chế, sắp xếp nguồn dự bị vào các đầu mối đơn vị đủ theo quy định đạt tỷ lệ trên 98% đối với đơn vị bộ binh và trên 72% đối với đơn vị binh chủng; sắp xếp các phương tiện kỹ thuật đạt 100% chỉ tiêu được giao… Hằng năm, các đơn vị DBĐV tổ chức phúc tra, động viên kiểm tra SSCĐ, động viên huấn luyện và diễn tập theo phương án tác chiến trong khu vực phòng thủ và thực hiện nhiệm vụ đột xuất của địa phương, của Quân khu.

Tuy nhiên, trong diễn biến phát triển kinh tế thị trường, Bến Tre cũng đang gặp nhiều khó khăn trong công tác này, nhất là việc tạo nguồn và quản lý nguồn DBĐV. Trước thực tế đó, Tỉnh chỉ đạo 2 ngành Quân sự và Công an phối hợp kiểm tra, nắm chắc tình hình tạm vắng và địa chỉ tạm trú của các đối tượng này, giúp đơn vị, địa phương chủ động liên hệ khi cần động viên. Để nắm chắc số quân nhân dự bị, Tỉnh chỉ đạo cơ quan quân sự cơ sở phối hợp chặt chẽ với cán bộ đơn vị khung B và cán bộ đơn vị khung A thực hiện phương châm “Biết từng ngõ, rõ từng nhà, rà từng người”, tổ chức thâm nhập, phúc tra, kiểm tra quân dự bị, kịp thời có kế hoạch dự phòng thay thế, điều chỉnh quân số, trước khi phát lệnh động viên. Với cách làm đó, nhiều năm liền, số quân động viên của Tỉnh đều đạt bình quân từ 90-100% quân số tham gia huấn luyện, diễn tập, SSCĐ, góp phần xây dựng lực lượng DBĐV vững mạnh mọi mặt, sẵn sàng động viên thực hiện nhiệm vụ huấn luyện, diễn tập và SSCĐ.

Thực hiện Chỉ thị 16 của Ban Bí thư và Nghị quyết số 10 của Tỉnh ủy Bến Tre “Về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với  lực lượng DQTV và lực lượng DBĐV trong tình hình mới”, Tỉnh ủy chỉ đạo tách chi bộ quân sự- công an, xây dựng chi bộ quân sự, theo cơ chế Bí thư Đảng ủy xã (phường, thị trấn) trực tiếp kiêm nhiệm bí thư chi bộ quân sự. Theo đó, công tác bồi dưỡng, phát triển đảng viên trong lực lượng DQTV và DBĐV được gắn với công tác quy hoạch, đào tạo đội ngũ cán bộ kế cận. Ngay từ năm 2005 Tỉnh đã thành lập và có 160/160 chi bộ quân sự xã (phường, thị trấn), trong đó có 73 chi bộ có cấp ủy. Hiện nay, các chi bộ quân sự cơ sở duy trì tốt hoạt động, nhất là trong việc tham mưu giúp cấp ủy địa phương lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện công tác quốc phòng, quân sự ở cơ sở. Từ mô hình điểm về tổ chức sinh hoạt Đảng lâm thời ở cơ sở tại Phân đội bộ binh 1 (Đơn vị T.95) và các phân đội DBĐV Thị xã Bến Tre, huyện Giồng Trôm, Tỉnh đã chỉ đạo nhân rộng ra các đơn vị DBĐV trong Tỉnh. Toàn Tỉnh hiện có 7/8 phân đội ở các huyện (thị xã), 3 phân đội thuộc Đơn vị T.95, với 3 đảng ủy cấp phân đội, 24 chi bộ cơ sở sinh hoạt nền nếp, chất lượng, hiệu quả hoạt động ngày càng tốt hơn, khẳng định mô hình đã đáp ứng được yêu cầu, nhiệm vụ, nâng cao chất lượng toàn diện lực lượng DBĐV; được cấp ủy địa phương đồng tình, thống nhất cao. Qua đó, giúp các địa phương và cán bộ khung thường trực quản lý, nắm chắc số lượng, chất lượng quân nhân dự bị ở đơn vị cơ sở. Để tạo nguồn phát triển Đảng trong lực lượng DBĐV, các địa phương đã mạnh dạn sắp xếp những quân nhân dự bị có năng lực, trình độ, phẩm chất đạo đức tốt tham gia các tổ chức chính trị, xã hội của địa phương để giáo dục, kèm cặp, phát triển Đảng, tạo nguồn cán bộ lãnh đạo cho địa phương. Tính đến cuối năm 2008, toàn Tỉnh đã sắp xếp quân nhân dự bị là đảng viên vào biên chế các đơn vị đạt tỷ lệ 10,44%, đoàn viên đạt 31,18%.

Cùng với đó, Tỉnh chỉ đạo các địa phương, đơn vị thực hiện đúng quy định của Pháp lệnh DQTV và DBĐV, các Nghị định của Chính phủ về lập dự toán chi, thanh quyết toán ngân sách quốc phòng, an ninh; phát huy dân chủ, công khai các chế độ chính sách; quan tâm tới đời sống vật chất, văn hóa, tinh thần của cán bộ, chiến sĩ lực lượng DQTV và DBĐV. Các chế độ lương, phụ cấp của cán bộ Ban Chỉ huy Quân sự cơ sở được chi trả đúng kỳ; cán bộ thuộc lực lượng DBĐV cũng được chi trả định kỳ trong buổi tổ chức sinh hoạt đơn vị... Bên cạnh đó, Tỉnh còn chỉ đạo cơ quan quân sự phối hợp với Hội Cựu chiến binh và cơ quan chức năng xây dựng nhà tình thương, nhà đồng đội, hỗ trợ những cán bộ, chiến sĩ DQTV và quân nhân dự bị còn khó khăn về nơi ăn, chốn ở. Cùng với việc tập trung lãnh đạo, chỉ đạo cơ quan chức năng thực hiện tốt các chế độ, chính sách cho các đối tượng trong lực lượng DQTV và DBĐV, Tỉnh cũng rất chú trọng công tác thanh tra, kiểm tra và kịp thời chấn chỉnh việc quản lý, sử dụng ngân sách quốc phòng, an ninh.

 Tuy nhiên, việc phân bổ ngân sách cho địa phương và đơn vị đang có những bất cập, nhất là bảo đảm các loại tiền ăn, phụ cấp và trợ cấp gia đình… đòi hỏi có sự đổi mới. Để tạo thuận lợi trong quản lý, sử dụng có hiệu quả ngân sách và thanh toán, quyết toán, từ thực tiễn của địa phương, chúng tôi cho rằng: nên phân bổ kinh phí trực tiếp cho một đầu mối là đơn vị trực tiếp huấn luyện quân dự bị; đồng thời, cần điều chỉnh tăng kinh phí cho công tác huấn luyện (nay mới đáp ứng được 1/10 yêu cầu), nhằm nâng cao chất lượng bồi dưỡng, tập huấn, huấn luyện cho lực lượng DQTV và DBĐV, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc thời kỳ mới.

Thiếu tướng VÕ HỒNG QUANG

Ủy viên Ban Thường vụ Tỉnh ủy

Chỉ huy trưởng  BCHQS Tỉnh

 

Ý kiến bạn đọc (0)