Thứ Năm, 24/04/2025, 17:28 (GMT+7)
Ấn phẩm tạp chí in
Nhận thức sâu sắc về tầm quan trọng của Nghị quyết 51-NQ/TW, ngày 20 tháng 7 năm 2005 của Bộ Chính trị (BCT) (khóa IX) đối với sự nghiệp xây dựng quân đội, củng cố quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc nói chung, cũng như đối với yêu cầu xây dựng Quân chủng Hải quân vững mạnh, đáp ứng yêu cầu bảo vệ chủ quyền biển, đảo, thềm lục địa của Tổ quốc nói riêng, trong hơn 2 năm qua, Đảng ủy Quân chủng (ĐUQC) đã tập trung lãnh đạo thực hiện nghiêm túc Nghị quyết trong toàn Quân chủng.
Những nội dung và yêu cầu cơ bản của Nghị quyết số 513-NQ/ĐUQSTW ngày 17-11-2005 của Đảng ủy Quân sự Trung ương (ĐUQSTƯ) về lãnh đạo triển khai tổ chức thực hiện Nghị quyết 51-NQ/TW của BCT đã được ĐUQC quán triệt, vận dụng cụ thể vào thực tế đặc điểm, tình hình, nhiệm vụ của Quân chủng để xác định các chủ trương, giải pháp tổ chức thực hiện sát hợp, có hiệu quả. Bên cạnh những thuận lợi, khó khăn chung, việc tổ chức thực hiện Nghị quyết 51-NQ/TW của BCT trong Quân chủng có những đặc điểm sau: Quân chủng bao gồm nhiều thành phần, lực lượng; các đơn vị đóng quân trên địa bàn rộng, phân tán, cơ cấu đội ngũ cán bộ đa dạng, nhiều ngành nghề; nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền biển, đảo trong điều kiện tình hình quốc tế và khu vực hiện nay hết sức phức tạp, việc xây dựng Quân chủng vững mạnh về chính trị là yêu cầu hàng đầu vừa cơ bản, thường xuyên, vừa cấp thiết. Những vấn đề trên đặt ra yêu cầu ngày càng cao, toàn diện và trực tiếp hơn đối với đội ngũ chính ủy, chính trị viên (CU, CTV), cũng như đối với yêu cầu nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức đảng và chất lượng của đội ngũ cán bộ, đảng viên các cấp.
Từ nhận thức như trên, ĐUQC đã chú trọng kết hợp đồng bộ nhiều giải pháp, cả về chính trị, tư tưởng, tổ chức, chính sách để tổ chức thực hiện Nghị quyết 51-NQ/TW của BCT. Thường vụ ĐUQC đã ra nghị quyết lãnh đạo, xây dựng kế hoạch và chỉ đạo cấp ủy các cấp triển khai thực hiện nghiêm túc, đúng phương châm "tích cực, chủ động, đồng bộ, vững chắc, có quy trình và bước đi phù hợp", bảo đảm chặt chẽ, làm đến đâu chắc đến đó, không nóng vội, chủ quan. Công tác nghiên cứu, quán triệt, phổ biến Nghị quyết đã được thực hiện chặt chẽ, thống nhất trong toàn Đảng bộ và các đơn vị của Quân chủng. Quá trình này đã chú trọng làm rõ mục đích, ý nghĩa, các nội dung cơ bản của Nghị quyết; kịp thời khắc phục những nhận thức sai lệch, đơn giản, xuôi chiều, giải quyết các vướng mắc trong tư tưởng và xác định trách nhiệm của cán bộ, đảng viên, chiến sĩ đối với việc thực hiện Nghị quyết. Cấp ủy, chỉ huy và cơ quan chính trị, cán bộ chính trị các cấp tiến hành tốt công tác giáo dục; thông qua các hoạt động ngày đảng, ngày văn hóa chính trị-tinh thần và thông qua hệ thống truyền thanh nội bộ làm cho mọi người nhận thức đúng đắn ý nghĩa, tầm quan trọng và những nội dung cơ bản của Nghị quyết, tạo niềm tin và sự đồng thuận cao trong quá trình thực hiện Nghị quyết. Đến ngày 25-2-2006, các đơn vị trong Quân chủng đã hoàn thành tốt việc quán triệt, học tập cho các đối tượng, quân số đạt 99,1% (riêng cấp ủy, cán bộ trung, cao cấp, cán bộ chủ trì đạt 100%).
Trên cơ sở Quyết định số 771 của Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, Hướng dẫn số 260 ngày 4-4-2006 của Tổng cục Chính trị về quản lý và bổ nhiệm CU, CTV; tiêu chí về phẩm chất, năng lực cán bộ trong Nghị quyết số 513 của ĐUQSTƯ, Quân chủng đã tiến hành rà soát, đánh giá thực chất về số lượng và chất lượng đội ngũ phó chỉ huy trưởng về chính trị ở các cấp, kết hợp với sự tín nhiệm của cấp ủy, tổ chức đảng trong nhiệm kỳ đại hội để triển khai sắp xếp, đề nghị bổ nhiệm các chức danh chính ủy, phó chính ủy, chính trị viên, chính trị viên phó các cấp theo đúng quy trình, nguyên tắc, bảo đảm chặt chẽ, chất lượng, tạo sự thống nhất cao. Quá trình lựa chọn, sắp xếp, đề nghị bổ nhiệm đã gắn với điều chỉnh quy hoạch và luân chuyển cán bộ, nhằm bố trí đúng người, đúng việc, đúng chức danh, phù hợp với từng vị trí. Các đồng chí được bổ nhiệm đều được xem xét kỹ về tiêu chí, tiêu chuẩn tương xứng với chức danh đảm nhiệm. Đến nay, về cơ bản, Quân chủng đã xếp đủ biên chế chức danh theo đúng quy định (số chính ủy đạt 100%, phó chính ủy đạt 81,5%, chính trị viên đạt 95,5%, chính trị viên phó đạt 69,3%). Cùng với lựa chọn, bổ nhiệm CU, CTV theo tiêu chuẩn, tương xứng với chức danh đảm nhiệm, cấp ủy các cấp đã quan tâm làm tốt việc tập huấn, bồi dưỡng những kiến thức cần thiết cho đội ngũ CU, CTV, để họ nhanh chóng thực hiện chức trách, nhiệm vụ trên cương vị mới; cùng với người chỉ huy lãnh đạo, chỉ đạo đơn vị thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chính trị trên giao, kịp thời khắc phục những hạn chế, bất cập trước khi thực hiện Nghị quyết. Qua hơn 2 năm thực hiện Nghị quyết 51-NQ/TW của BCT, chất lượng đội ngũ CU, CTV trong Quân chủng đã từng bước đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ. Đội ngũ CU, CTV các cấp cơ bản đã nhận thức rõ vị trí, vai trò, trách nhiệm là người chủ trì về chính trị ở đơn vị, bao gồm toàn bộ công tác xây dựng tổ chức, xây dựng con người, đảm bảo cho mọi hoạt động của đơn vị luôn giữ vững định hướng chính trị, phát huy sức mạnh tổng hợp để lãnh đạo, chỉ đạo đơn vị thực hiện thắng lợi nhiệm vụ được giao.
Trách nhiệm, quyền hạn của CU, CTV các cấp đối với mọi hoạt động của đơn vị và hoạt động công tác đảng, công tác chính trị (CTĐ, CTCT) đã từng bước được nâng lên, quá trình tổ chức thực hiện nhiệm vụ, cơ bản thể hiện được vai trò là người chủ trì về chính trị ở đơn vị, là trung tâm đoàn kết trong đảng bộ, chi bộ, đơn vị; giữ vững nguyên tắc lãnh đạo, dám chịu trách nhiệm trước cấp ủy, chỉ huy cấp trên và cấp ủy cấp mình về toàn bộ hoạt động CTĐ, CTCT của đơn vị; nhiều đồng chí đã thể hiện tính tích cực, chủ động trong các hoạt động lãnh đạo, chỉ đạo và xây dựng kế hoạch triển khai tổ chức thực hiện theo cương vị, chức trách, nhiệm vụ và tham gia với người chỉ huy trong xây dựng kế hoạch và triển khai tổ chức thực hiện các mặt công tác chung của đơn vị.
Việc giải quyết mối quan hệ công tác giữa CU, CTV với người chỉ huy đã được thực hiện đúng với tinh thần của Nghị quyết, theo Quy định 85 của ĐUQSTƯ. Trong thực hiện chức trách, người chỉ huy và CU, CTV đã luôn kết hợp chặt chẽ trong tổ chức thực hiện nhiệm vụ, thường xuyên trao đổi, bàn bạc và thông báo cho nhau các nghị quyết, chủ trương, chính sách, chỉ thị, hướng dẫn, mệnh lệnh, nhiệm vụ của trên và mọi mặt của đơn vị, để thống nhất đánh giá, bàn biện pháp tổ chức thực hiện và báo cáo cấp ủy quyết định. Đã có sự phân công cụ thể, rõ ràng về quyền hạn, chức trách, nhiệm vụ theo đúng quy định của Thường vụ ĐUQC và quy chế làm việc của cấp ủy các cấp; tránh được sự chồng chéo trong lãnh đạo, chỉ đạo; phát huy được tính tích cực, chủ động của người chỉ huy và CU, CTV trong điều hành tổ chức thực hiện nhiệm vụ và các mặt công tác của đơn vị. Phát huy tốt dân chủ ở các cấp trong sinh hoạt và thực hiện nhiệm vụ, không có biểu hiện mất đoàn kết hoặc có ý kiến trái ngược nhau giữa CU, CTV với người chỉ huy.
Thực tế hơn 2 năm thực hiện Nghị quyết 51-NQ/TW của BCT đã cho thấy, mặc dù mặt bằng ban đầu của đội ngũ CU, CTV trong Quân chủng chưa đồng đều, một bộ phận còn có sự hạn chế nhất định về kinh nghiệm, phương pháp, tác phong và năng lực công tác; trong đội ngũ chính trị viên cấp đại đội, tàu, trạm và tương đương, một số đồng chí có tuổi đời chênh lệch cao so với người chỉ huy cùng cấp, song qua nỗ lực phấn đấu học tập, tu dưỡng của cá nhân và sự quan tâm giáo dục, bồi dưỡng, rèn luyện của tổ chức, chất lượng của đội ngũ này đã có sự phát triển tích cực, đáp ứng ngày càng tốt hơn yêu cầu nhiệm vụ theo cương vị, chức trách. Qua phân tích, đánh giá chất lượng cho thấy năng lực của đội ngũ CU, CTV trong Quân chủng từ cấp tiểu đoàn, hải đội và tương đương tới cấp vùng đã có trên 75% đạt khá và giỏi (tỷ lệ giỏi đối với chính ủy cấp vùng, cục Cảnh sát biển đạt 33%). Với việc thực hiện cơ chế lãnh đạo mới, chất lượng và hiệu quả hoạt động CTĐ, CTCT trong Quân chủng bước đầu đã có sự phát triển tương đối toàn diện. Công tác giáo dục chính trị, định hướng tư tưởng thường xuyên được cấp ủy, chỉ huy các cấp quan tâm và phát huy tốt; nội dung, hình thức, biện pháp giáo dục luôn được đổi mới, từng bước đi vào chiều sâu. Trận địa chính trị, tư tưởng trong toàn Quân chủng luôn được giữ vững, cán bộ, chiến sĩ an tâm công tác, xác định tốt nhiệm vụ. Tình hình tư tưởng phát triển theo chiều hướng tích cực, nội bộ đoàn kết, thống nhất, thực hiện dân chủ ở cơ sở có nhiều chuyển biến tiến bộ. Tuyệt đại đa số cán bộ, chiến sĩ, quân nhân chuyên nghiệp, công nhân viên quốc phòng có bản lĩnh chính trị vững vàng, phát huy tốt tinh thần trách nhiệm, quyết tâm cao trong thực hiện nhiệm vụ; nhận thức đúng về đối tượng, đối tác; cảnh giác trước mọi âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch, có niềm tin vào sự lãnh đạo của Đảng, vào công cuộc đổi mới đất nước. Công tác xây dựng đảng, xây dựng đội ngũ cán bộ, chấp hành nguyên tắc tập trung dân chủ và thực hiện chế độ sinh hoạt đảng đã được coi trọng, từng bước đi vào nền nếp; cấp ủy các cấp đã chủ động rà soát, xây dựng, bổ sung quy chế làm việc và các quy chế lãnh đạo của cấp ủy trên một số mặt công tác chủ yếu. Năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức đảng các cấp và chất lượng đội ngũ đảng viên, đội ngũ cán bộ không ngừng được nâng lên; cấp ủy các cấp thường xuyên được củng cố, kiện toàn. Tính đảng, tính nguyên tắc, tính đấu tranh tự phê bình và phê bình được giữ vững và phát huy; chế độ sinh hoạt đảng, công tác phát triển đảng, công tác kiểm tra, giám sát, quản lý, giáo dục, rèn luyện đảng viên có nhiều chuyển biến tiến bộ; tỷ lệ vi phạm kỷ luật giảm; hiệu lực của người chỉ huy được củng cố và phát huy. Năm 2006, trong Đảng bộ Quân chủng có 88,48% tổ chức đảng và 90,14% cấp ủy các cấp đạt trong sạch vững mạnh (TSVM), (tăng 0,26% so với 2005); năm 2007 có 88,56% tổ chức đảng (tăng 0,08%), 87,7% cấp ủy các cấp đạt TSVM. Cùng với lãnh đạo xây dựng tổ chức đảng, nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của cấp ủy, chi bộ, các tổ chức: chỉ huy, tổ chức quần chúng, Hội đồng quân nhân được xây dựng vững mạnh, hoạt động đúng chức năng, góp phần hoàn thành tốt nhiệm vụ chính trị của đơn vị, xây dựng tổ chức đảng TSVM, đơn vị vững mạnh toàn diện.
Bên cạnh mặt tích cực là cơ bản, đội ngũ CU, CTV, nhất là ở cấp tiểu đoàn, hải đội, đại đội tàu và tương đương trong Quân chủng còn bộc lộ một số hạn chế. So với vị trí của người chủ trì về chính trị, khả năng nắm bắt thực tiễn để tổng hợp dự báo tình hình ở một số đồng chí chưa thật nhạy bén; chưa thật chủ động trong triển khai chỉ đạo các hoạt động CTĐ, CTCT gắn với các nhiệm vụ chính trị của đơn vị; tham gia phối hợp với người chỉ huy để bàn bạc thống nhất các nội dung, biện pháp tổ chức thực hiện nhiệm vụ chưa rõ nét. Việc điều hành kế hoạch CTĐ, CTCT ở một số CU, CTV có lúc chưa kiên quyết, thiếu chủ động; do nhiều năm làm cấp phó, nên khả năng trong xử lý công việc của một số ít đồng chí còn yếu; hiểu biết về công tác quân sự, kỹ thuật, hậu cần còn hạn chế, còn thụ động, ỷ lại vào tập thể và người chỉ huy. Trong đội ngũ chính trị viên cấp tàu, đại đội, trạm và tương đương, một số còn hạn chế về kinh nghiệm thực tiễn, nhất là ở một số vị trí không được biên chế chính trị viên phó; số cán bộ chính trị mới ra trường được bổ nhiệm ngay chính trị viên, nên bước đầu nhận thức và thực hiện chức trách, nhiệm vụ còn lúng túng.
Những tồn tại, hạn chế trong tổ chức thực hiện Nghị quyết 51-NQ/TW của BCT và trong chất lượng đội ngũ CU, CTV đã được ĐUQC và cấp uỷ các cấp phân tích, đánh giá cụ thể về mức độ, nguyên nhân, qua đó xác định các giải pháp tích cực, đồng bộ để khắc phục. Một số giải pháp cơ bản đang được Quân chủng chú trọng thực hiện là: thường xuyên kết hợp chặt chẽ xây dựng đội ngũ cán bộ chủ trì với kiện toàn cấp ủy, kiện toàn cán bộ chỉ huy; tập trung xây dựng tổ chức đảng TSVM gắn với xây dựng đơn vị vững mạnh toàn diện, nâng cao năng lực lãnh đạo toàn diện và sức chiến đấu của tổ chức đảng các cấp; giữ vững nguyên tắc tập trung dân chủ, tập thể lãnh đạo, phát huy cao độ trách nhiệm chính trị của CU, CTV và người chỉ huy các cấp. Xây dựng, điều chỉnh, bổ sung đầy đủ và thực hiện nghiêm quy chế làm việc, quy chế lãnh đạo trên một số mặt công tác chủ yếu của cấp ủy; xây dựng hệ thống tổ chức chỉ huy, tổ chức quần chúng vững mạnh. Thực hiện tốt việc bồi dưỡng kỹ năng tiến hành CTĐ, CTCT, làm cho đội ngũ CU, CTV các cấp nắm vững nguyên tắc, nội dung, phương pháp tiến hành hoạt động CTĐ, CTCT. Kết hợp chặt chẽ việc nghiên cứu, tập huấn tại đơn vị và cấp trên bồi dưỡng cho cấp dưới. Đề cao tinh thần tích cực, chủ động, sáng tạo của CU, CTV trong tự học, tự bồi dưỡng, tự rèn luyện; lấy việc tự học, tự rèn của cán bộ làm một tiêu chuẩn quan trọng để đánh giá chất lượng cán bộ. Củng cố, thực hiện tốt các mối quan hệ công tác của CU, CTV, nhất là quan hệ với người chỉ huy, bảo đảm sự lãnh đạo vững chắc, toàn diện, xuyên suốt của các tổ chức đảng trong đơn vị. Chú trọng thường xuyên nêu cao tính đảng, tính nguyên tắc của người chỉ huy và CU, CTV lấy đó là một đảm bảo cơ bản để Nghị quyết 51-NQ/TW của BCT được thực hiện có hiệu quả.
Phó đô đốc Trần Thanh Huyền
Bí thư Đảng ủy, Chính ủy Quân chủng
Trao đổi ý kiến giữa Tạp chí quốc phòng toàn dân với bạn đọc, cộng tác viên Quân khu 5 12/12/2011
Nghệ thuật tổ chức, sử dụng lực lượng quân sự trong những ngày đầu kháng chiến toàn quốc 12/12/2011
“Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến” với việc xây dựng nền quốc phòng toàn dân trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc hiện nay 12/12/2011
Một số vấn đề về nghệ thuật chiến dịch phòng ngự trong chiến tranh bảo vệ Tổ quốc 12/12/2011
Hưng Yên không ngừng nâng cao hiệu quả công tác giáo dục quốc phòng 12/12/2011
Kết quả và kinh nghiệm tiến hành công tác phổ biến, giáo dục pháp luật của lực lượng vũ trang Quân khu 5 12/12/2011
Đoàn B.90 nâng cao chất lượng xây dựng lực lượng dự bị động viên - một số kinh nghiệm bước đầu 12/12/2011
Trường Quân sự Binh đoàn Cửu Long phấn đấu nâng cao chất lượng giáo dục, đào tạo và huấn luyện 11/12/2011
Kết hợp kinh tế với quốc phòng, tạo lập thế trận phòng thủ vững chắc trên địa bàn tỉnh ven biển Thái Bình 11/12/2011
Trung tâm Nhiệt đới Việt - Nga phát huy nội lực, mở rộng hợp tác, nâng cao hiệu quả hoạt động 11/12/2011