QPTD -Thứ Sáu, 16/09/2011, 23:39 (GMT+7)
Thành tựu và bài học về đổi mới tư duy quân sự-quốc phòng từ Cương lĩnh 1991 đến nay

Đại hội VII của Đảng (6-1991) thông qua Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH. Từ đó đến nay, trong quá trình thực hiện Cương lĩnh, chúng ta đã đạt được những thành tựu to lớn về nhiều mặt, trong đó có những thành tựu về đổi mới tư duy quân sự-quốc phòng. Cụ thể là:

Chúng ta đã có những phát triển và đổi mới nhận thức về mục tiêu và nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc. Trước đây, khi thế giới còn tồn tại hai hệ thống chính trị đối lập, việc xác định mục tiêu thường chỉ nhấn mạnh đến bảo vệ độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc. Nay, trong điều kiện lịch sử mới, nhận thức về bảo vệ Tổ quốc của chúng ta mang tính toàn diện; không chỉ bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, mà còn là bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ XHCN; bảo vệ sự nghiệp đổi mới, CNH,HĐH đất nước; bảo vệ lợi ích quốc gia, dân tộc; bảo vệ an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội và nền văn hoá, giữ vững ổn định chính trị và môi trường hoà bình, phát triển đất nước theo định hướng XHCN.

Từ nhận thức mới về mục tiêu bảo vệ Tổ quốc, chúng ta đã có những nhận thức mới về nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc, mà theo đó, bảo vệ Đảng, bảo vệ chế độ XHCN là nội dung không thể tách rời của nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc. Bởi đối với mọi quốc gia, quyền xây dựng chế độ chính trị, kinh tế, xã hội của mình là quyền cơ bản. Mất chủ quyền chính trị cũng có nghĩa là mất độc lập, tự do về chính trị. Chế độ thực dân mới chính là chế độ mà quyền chính trị của một quốc gia bị nước ngoài áp đặt, dĩ nhiên nó kéo theo sự áp đặt về kinh tế, văn hoá, xã hội. Một chân lý lớn của thời đại mà Đảng ta đã tổng kết và nhân dân ta đã ý thức sâu sắc, đó là sự kết hợp chặt chẽ giữa độc lập dân tộc với CNXH. Sự uy hiếp đối với sự tồn tại của CNXH, đối với nước ta hiện nay mang tính thường trực, nếu ta lơ là, mất cảnh giác sẽ trở thành nguy cơ. Nó đến không chỉ từ bên ngoài với chiến lược “Diễn biến hoà bình”, mà còn từ những thế lực chống đối chế độ ngay trên đất nước ta. Từ các đảng phái chính trị phản động ở nước ngoài, đến các lực lượng đội lốt hoạt động tôn giáo ở trong nước…, chúng đều ráo riết tìm mọi cách thực hiện mưu đồ đen tối: xoá bỏ sự lãnh đạo của Đảng ta. Bên cạnh đó, chúng ta còn phải tính đến những quan điểm lệch lạc ngay trong nội bộ, nếu không kịp thời uốn nắn, đấu tranh thì nó có thể phát triển và dẫn đến nguy cơ chệch hướng XHCN. Do nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc rất đa dạng, nên phương thức bảo vệ cũng phải đa dạng. Để bảo vệ chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ phải dùng phương thức khác với bảo vệ Đảng, bảo vệ chế độ XHCN. Vì một bên là bảo vệ biên cương của Tổ quốc, có ranh giới cụ thể, có kẻ thù cụ thể, chúng thường tiến công từ bên ngoài vào lãnh thổ; một bên là bảo vệ hệ tư tưởng, các nguyên tắc tổ chức, hoạt động, các quy chế của Đảng, bên trong và bên ngoài Tổ quốc. Còn bảo vệ nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc chẳng hạn thì phức tạp hơn, nhất là khi Việt Nam đã là thành viên WTO. Với sự phức tạp, đa dạng như vậy, việc tách rời quốc phòng với an ninh theo cách nghĩ truyền thống không còn đúng nữa; việc kết hợp quốc phòng với an ninh phải theo một chiến lược chung, quốc phòng và an ninh phải thống nhất trong chiến lược chung đó, tuy có sự phân công về chức năng, nhiệm vụ, nhưng lại thống nhất trong hành động, trong ý chí.

Nhận thức về sức mạnh và lực lượng bảo vệ Tổ quốc của chúng ta có những phát triển mới, trên cơ sở hiểu rõ mối quan hệ hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Hai nhiệm vụ chiến lược này quan hệ chặt chẽ với nhau, xâm nhập vào nhau; xây dựng là gốc của bảo vệ và bảo vệ là bộ phận hợp thành của xây dựng; xây dựng phải gắn với bảo vệ, bảo vệ phải nhằm mục đích xây dựng phát triển tốt hơn. Từ đó, thấy rõ sức mạnh bảo vệ Tổ quốc là sức mạnh tổng hợp, bao gồm sức mạnh về chính trị, tư tưởng, kinh tế, xã hội, văn hoá, quốc phòng, an ninh, đối ngoại… Cùng với đó là việc phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc, của cả hệ thống chính trị dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý, điều hành thống nhất của Nhà nước, lực lượng vũ trang là nòng cốt; tăng cường tiềm lực quốc phòng, an ninh; không ngừng xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân (QPTD) gắn với thế trận an ninh nhân dân trong tình hình mới.

Lực lượng để bảo vệ Tổ quốc được xác định rõ là toàn dân, trong đó Quân đội nhân dân, Công an nhân dân giữ vai trò nòng cốt. Đây là vấn đề mang tính quy luật trong chiến tranh nhân dân hiện đại. Trên cơ sở động viên, giáo dục toàn thể công dân lòng yêu nước, yêu CNXH, căm thù quân xâm lược và các thế lực thù địch, có ý chí quyết chiến, quyết thắng và niềm tin vững chắc vào thắng lợi, mà phát động và tổ chức toàn dân thực hiện xây dựng nền quốc phòng trong điều kiện thời bình và toàn dân đánh giặc khi đất nước bị xâm lược. Điều đặc biệt, các lực lượng trong tổ chức toàn dân đánh giặc trong điều kiện mới có khả năng phát huy đầy đủ sức mạnh tổng hợp từ trình độ giác ngộ độc lập dân tộc và CNXH, từ cơ sở vật chất hiện đại của đất nước và trình độ khoa học-công nghệ tiên tiến của nền sản xuất lớn. Lực lượng toàn dân đánh giặc lại được bố trí trong hệ thống khu vực phòng thủ các cấp, hệ thống làng, xã chiến đấu, trong các khu công nghiệp, khu chế xuất, trong hệ thống hợp tác xã nông - lâm trường, xí nghiệp… do cấp uỷ và chính quyền các cấp trực tiếp lãnh đạo, chỉ huy theo phương án đã được chuẩn bị.

Chúng ta có được những nhận thức mới về xây dựng, củng cố nền QPTD với tư tưởng chủ đạo: lấy việc giữ vững môi trường hoà bình, ổn định để phát triển kinh tế-xã hội, thực hiện CNH,HĐH theo định hướng XHCN là lợi ích cao nhất của đất nước. Do đó, chúng ta xác định rõ mục đích xây dựng, củng cố nền QPTD là nhằm tạo sức mạnh phòng thủ bảo vệ đất nước, bảo vệ Tổ quốc hoà bình, phát triển trong độc lập, tự do và CNXH. Sức mạnh của nền QPTD, sức mạnh phòng thủ đất nước là chỗ dựa tin cậy để toàn Đảng, toàn dân ta kiên định con đường XHCN, chống chiến lược “Diễn biến hoà bình”. Đó là sức mạnh đấu tranh làm vô hiệu hoá chiến lược “Không đánh mà thắng”, đập tan cuộc chiến tranh tổng lực phi vũ trang của các thế lực phản động trong và ngoài nước hòng “đổi màu”, đổi hướng sự nghiệp cách mạng của Đảng, của nhân dân ta. Sức mạnh phòng thủ quốc gia bảo đảm cho tuyệt đại bộ phận nhân dân ta kiên định con đường XHCN, từng bước thực hiện thành công sự nghiệp CNH,HĐH đất nước.

Xây dựng, củng cố nền QPTD vững mạnh, nhằm tạo nên sức mạnh ngăn chặn, đẩy lùi chiến tranh xâm lược được bổ sung nhận thức mới, phản ánh vị thế và thực lực mới của đất nước ta trong bối cảnh thế giới sau “Chiến tranh lạnh”. Chính thắng lợi vĩ đại của sự nghiệp giành độc lập dân tộc, thống nhất Tổ quốc, đưa cả nước đi lên CNXH; những thành tựu to lớn, rất quan trọng của 22 năm đổi mới toàn diện đất nước đã làm cho dân tộc ta có vị thế mới trong cộng đồng quốc tế. Điều đó làm cho nước ta hội nhập với các nước trong khu vực và thế giới, trong quan hệ bình đẳng, công bằng, độc lập - tự chủ giữa các quốc gia, dân tộc và ta nhận được sức mạnh thời đại ở một dạng mới. Xu hướng ngăn chặn chiến tranh, giữ vững hoà bình để phát triển của nhân dân thế giới cũng làm tăng thêm sức mạnh của nhân dân Việt nam nhằm ngăn chặn, đẩy lùi chiến tranh xâm lược của các thế lực phản động, thù địch.

Cương lĩnh của Đảng ta chỉ rõ, đặc trưng lớn nhất của chế độ XHCN là “Do nhân dân lao động làm chủ”. Thời gian qua, để động viên toàn dân tham gia tích cực và sáng tạo vào công cuộc xây dựng đất nước nói chung, xây dựng và củng cố nền QPTD nói riêng, chúng ta đã từng bước thể chế hoá quyền làm chủ của nhân dân bằng pháp luật và tổ chức, bằng những thiết chế dân chủ cụ thể trong đời sống xã hội và coi đấy là nguồn nội lực to lớn trong thực hiện nhiệm vụ xây dựng đất nước và bảo vệ Tổ quốc.

Trên cơ sở đổi mới tư duy quân sự - quốc phòng, chúng ta đã giành được những thành tựu to lớn trong quá trình thực hiện nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc.  Đánh giá một cách tổng quát, thành tựu cơ bản, bao trùm vẫn là giữ vững độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của đất nước, các thành quả cách mạng, sự lãnh đạo của Đảng và chế độ XHCN, tăng cường thế và lực của đất nước. Trong đó, chúng ta đã kịp thời điều chỉnh chiến lược, xây dựng kế hoạch bảo vệ Tổ quốc, bố trí lực lượng phù hợp với diễn biến tình hình, điều chỉnh một bước tổ chức quân đội, bảo đảm tương đối hợp lý cơ cấu giữa lực lượng bộ đội thường trực và lực lượng dự bị động viên, giữa bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương và dân quân, tự vệ… Việc tăng cường phòng thủ có trọng điểm trên các hướng chiến lược và triển khai xây dựng các khu kinh tế - quốc phòng trên các địa bàn chiến lược đều mang lại kết quả thiết thực.

Nền QPTD, thế trận QPTD gắn với thế trận an ninh nhân dân được củng cố; tư duy về kết hợp kinh tế với quốc phòng có chuyển biến rõ. Quân đội đã tham gia tích cực và có hiệu quả vào các chương trình phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, vào các hoạt động xoá đói, giảm nghèo, nhất là ở vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo. Quân đội là lực lượng nòng cốt trong công tác cứu hộ, cứu nạn, khắc phục hậu quả thiên tai, phòng chống dịch bệnh. Quân đội đã kết hợp ngày càng tốt hơn với cấp uỷ, chính quyền địa phương trong triển khai xây dựng khu vực phòng thủ, góp phần nâng cao tiềm lực về chính trị, kinh tế, quốc phòng của các khu vực phòng thủ và của đất nước; tăng thêm khả năng giữ vững ổn định chính trị, trật tự, an toàn xã hội và bảo vệ Tổ quốc. Chúng ta đã thu được những kết quả tích cực trong việc giáo dục và bồi dưỡng kiến thức quốc phòng - an ninh cho toàn dân, cho cán bộ chủ chốt các cấp, các ngành, góp phần nâng cao tinh thần cảnh giác, ý thức trách nhiệm, nghĩa vụ trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Chúng ta đã thường xuyên coi trọng xây dựng quân đội về chính trị (điển hình là việc triển khai thực hiện Nghị quyết 51 của Bộ Chính trị “Về tiếp tục hoàn thiện cơ chế lãnh đạo của Đảng, thực hiện chế độ một người chỉ huy gắn với thực hiện chế độ chính uỷ, chính trị viên trong Quân đội nhân dân Việt Nam”), bảo đảm cho quân đội thường xuyên là một khối đoàn kết, thống nhất cả ý chí và hành động, giữ vững bản chất chính trị, bản lĩnh chiến đấu, thực sự là lực lượng chính trị, lực lượng chiến đấu trung thành, tin cậy của Đảng, Nhà nước và nhân dân; giữ vững và phát huy phẩm chất cao đẹp của “Bộ đội Cụ Hồ” trong giai đoạn mới. Trên cơ sở đó, chúng ta đã chú trọng đổi mới nội dung huấn luyện, sẵn sàng chiến đấu, bảo đảm vũ khí, trang bị kỹ thuật, bảo đảm hậu cần, củng cố công nghiệp quốc phòng và các mặt công tác khác, làm cho chất lượng tổng hợp, sức mạnh chiến đấu và khả năng sẵn sàng chiến đấu của quân đội ngày càng đáp ứng tốt hơn yêu cầu đòi hỏi của tình hình.

Nhìn lại những thành tựu to lớn về đổi mới tư duy quân sự-quốc phòng trong quá trình thực hiện Cương lĩnh năm 1991 đến nay, có thể rút ra được bài học quan trọng. Đó là phải nắm vững công tác tư tưởng, lý luận, làm cho công tác tư tưởng, lý luận luôn bám sát thực tiễn, thực sự có tác dụng chỉ đạo hoạt động thực tiễn, làm cơ sở cho việc hoạch định đường lối, chính sách. Còn trong quá trình tổ chức thực hiện, phải coi trọng công tác nghiên cứu, tổng kết, phân tích, đánh giá đúng tình hình quốc tế, khu vực và trong nước, để kịp thời tham mưu cho Đảng, Nhà nước những vấn đề quan trọng trong lĩnh vực quân sự, quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc. Nhờ đó, trong những năm qua, toàn quân đã duy trì nghiêm chế độ sẵn sàng chiến đấu, quản lý chặt chẽ vùng trời, vùng biển, biên giới; triển khai đồng bộ các biện pháp đấu tranh chống “Diễn biến hoà bình”, bạo loạn lật đổ, chủ động phối hợp với các lực lượng ngăn chặn và xử lý kịp thời các âm mưu và hành động chống phá của các thế lực thù địch, các hành động xâm phạm chủ quyền, lãnh thổ, vi phạm an ninh biên giới quốc gia. Đây chính là bài học quý báu để chúng ta tiếp tục đổi mới tư duy quân sự-quốc phòng và tổ chức thực tiễn, đáp ứng yêu cầu mới, sự phát triển mới của tình hình trong nước và quốc tế.

ThS. Nguyễn Văn Lượng

Cục Nhà trường, Bộ Tổng Tham mưu

 

Ý kiến bạn đọc (0)