QPTD -Thứ Ba, 16/08/2011, 00:01 (GMT+7)
Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác tôn giáo trong tình hình hiện nay

Nhận rõ vai trò và tầm quan trọng của tôn giáo trong đời sống xã hội, Đảng và Nhà nước ta luôn khẳng định sự tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của nhân dân; đồng thời, kiên quyết đấu tranh với các âm mưu, thủ đoạn lợi dụng tôn giáo, tín ngưỡng nhằm chống phá công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Các Văn kiện Đảng, nhất là từ Đại hội II (2/1951) đến Đại hội V (3/1982) liên tục khẳng định quan điểm cơ bản, mang tính định hướng của Đảng về tự do tín ngưỡng, tôn giáo. Nhưng dấu mốc quan trọng thể hiện sự đổi mới tư duy của Đảng ta về tôn giáo và công tác tôn giáo là Nghị quyết 24/NQ-TW ngày 16-10-1990 của Bộ Chính trị (khóa VI). Với Nghị quyết này,  Đảng ta thừa nhận: tín ngưỡng, tôn giáo là vấn đề còn tồn tại lâu dài, là nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân lao động có đạo và đạo đức tôn giáo có nhiều điều phù hợp với sự nghiệp xây dựng xã hội mới. Sự đổi mới tư duy về tôn giáo của Đảng tiếp tục được khẳng định trong Nghị quyết 25/NQ-TW ngày 12-3-2003 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa IX), coi tôn giáo không chỉ tồn tại lâu dài mà sẽ tiếp tục đồng hành cùng dân tộc, đặc biệt là đồng hành với chế độ XHCN mà nhân dân ta đang xây dựng. Quan điểm “lương giáo đoàn kết” của Chủ tịch Hồ Chí Minh được tiếp tục khẳng định: “Đồng bào các tôn giáo là bộ phận của khối đại đoàn kết dân tộc”. Việc sử dụng thuật ngữ “Đồng bào các tôn giáo” đã phản ánh sự phát triển mới trong nhận thức của Đảng, vì hai chữ “đồng bào” đã thể hiện đầy đủ tư tưởng: những người có niềm tin tôn giáo và không có tôn giáo đều cùng một “bọc”, đều là con em của dân tộc Việt Nam, đều là công dân của nước Việt Nam XHCN, đều có quyền lợi và nghĩa vụ đoàn kết, chung sức, chung lòng xây dựng đất nước: “Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”. Để tăng cường hơn nữa khối đại đoàn kết toàn dân tộc, Đảng ta khẳng định: công tác tôn giáo là nhiệm vụ của cả hệ thống chính trị và nội dung cốt lõi của công tác tôn giáo là công tác vận động quần chúng. Nghị quyết cũng nêu rõ các tổ chức tôn giáo được Nhà nước thừa nhận được hoạt động theo pháp luật và được pháp luật bảo hộ, nhưng cũng nghiêm cấm việc theo đạo và truyền đạo trái pháp luật. Để thể chế hóa chủ trương, chính sách của Đảng, nhiều văn bản pháp luật của Nhà nước liên quan trực tiếp hoặc gián tiếp đến vấn đề tôn giáo đã được ban hành, như: Nghị định 69/HĐBT do Hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính phủ) ban hành ngày 21-3-1991; Nghị định 26/1999/ NĐ-CP ngày 14-9-1999 của Chính phủ; Pháp lệnh Tín ngưỡng, Tôn giáo ngày 18-6-2004;… Những văn bản pháp luật trên đã tạo hành lang pháp lý cho hoạt động tôn giáo, góp phần quan trọng vào việc giải quyết những vấn đề tôn giáo nảy sinh trong tình hình mới.

Những năm qua, công tác tôn giáo của Đảng và Nhà nước ta đã thu được nhiều thành tựu đáng ghi nhận. Quyền tự do tôn giáo, tín ngưỡng của người dân được bảo đảm, nhiều sinh hoạt tôn giáo diễn ra bình thường, ổn định, trong khuôn khổ pháp luật. Đa số chức sắc, tín đồ các tôn giáo vừa nghiêm chỉnh chấp hành chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, hăng hái tham gia các phong trào cách mạng, vừa tích cực chăm lo bổn phận giáo dân, thực hiện giáo lý, giáo luật và củng cố đức tin tôn giáo theo phương châm: sống “tốt đời, đẹp đạo”, “kính Chúa, yêu nước” để “Nước vinh, Đạo sáng”. Để đảm bảo quyền tự do tín ngưỡng cho đồng bào có đạo, đáp ứng nhu cầu tôn giáo; đồng thời, quản lý các tôn giáo theo Hiến pháp, pháp luật, ngăn chặn âm mưu đội lốt, giả danh tổ chức tôn giáo vì mục đích chính trị của các thế lực xấu, Nhà nước đã cấp giấy đăng ký hoạt động và công nhận về mặt tổ chức cho 31 tổ chức của 12 tôn giáo. Trong đó, 10 tôn giáo đã được chính thức thừa nhận tư cách pháp nhân. Đặc biệt, sau khi có Chỉ thị 01/2005/CT-TTg của Thủ tướng Chính phủ “Về một số công tác đối với đạo Tin lành”, đã có gần 1.000 chi hội Tin lành ở Tây Nguyên được công nhận và trên 100 điểm nhóm Tin lành ở khu vực các tỉnh miền núi phía Bắc được cấp phép đăng ký hoạt động. Việc xét duyệt và công nhận tư cách pháp nhân tôn giáo được tiến hành theo đúng thẩm quyền pháp lý. Đa số các tổ chức tôn giáo đã được công nhận tư cách pháp nhân, đều xây dựng cho mình đường hướng hành đạo đồng hành cùng dân tộc. Cấp uỷ, chính quyền các cấp đã tạo điều kiện cho các tổ chức tôn giáo xây mới, sửa chữa, trùng tu nơi thờ tự theo đúng quy định của pháp luật. Nhiều nhà thờ, chùa chiền, thánh thất… được xây mới, trùng tu, tôn tạo ngày càng khang trang, tạo thuận lợi cho tín đồ sinh hoạt tôn giáo. Đến nay, cả nước có 23.464 cơ sở thờ tự của các tôn giáo; trong đó, xây mới được 242 cơ sở, trùng tu, nâng cấp trên 320 cơ sở. Công tác quản lý nhà nước trong xét duyệt chương trình hành đạo thường xuyên và đột xuất, xét duyệt quá trình đào tạo chức sắc tôn giáo, xét duyệt quá trình sản xuất, lưu thông đồ dùng việc đạo và một số việc thuộc hành chính đạo, như thuyên chuyển, bổ nhiệm chức sắc tôn giáo được tiến hành chặt chẽ, đảm bảo tuân thủ các quy trình, thủ tục pháp luật. Nhờ làm tốt công tác này, thời gian qua, đa số các tôn giáo đã hoạt động hành đạo, truyền đạo và quản đạo đúng với quy định của Nhà nước. Đội ngũ chức sắc, chức việc tôn giáo không ngừng tăng cả về số lượng và chất lượng. Hiện cả nước có 64.079 chức sắc tôn giáo, trong đó có nhiều vị được đào tạo bậc thạc sĩ, tiến sĩ tại các cơ sở đào tạo ở trong và ngoài nước. Công tác vận động quần chúng, giáo dục và động viên tín đồ tôn giáo tham gia các phong trào thi đua yêu nước, các hoạt động từ thiện xã hội... được quan tâm đúng mức và đạt nhiều kết quả. Đại bộ phận quần chúng tín đồ và chức sắc tôn giáo ủng hộ và tham gia các chương trình phát triển kinh tế - xã hội địa phương, tích cực xóa đói, giảm nghèo, xây dựng đời sống văn hóa mới ở khu dân cư…; hầu hết các tôn giáo đều làm tốt công tác từ thiện nhân đạo; tổ chức quyên góp, trợ giúp các Bà mẹ Việt Nam Anh hùng, đồng bào bị thiên tai, bão lụt, trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn, người già cô đơn không nơi nương tựa (cơ sở từ thiện nhân đạo của Giáo hội Phật giáo Việt Nam là 1.076; của Giáo hội Công giáo là 1.041). Cấp uỷ, chính quyền các cấp đã xử lý tốt các khiếu tố, khiếu nại liên quan đến tôn giáo và vi phạm chính sách tôn giáo; không ngừng cảnh giác, đấu tranh chống lại âm mưu lợi dụng tôn giáo của các thế lực thù địch. Nhiều “điểm nóng” tôn giáo liên quan đến Tin Lành Vàng Chứ và Tin lành Thìn Hùng ở miền núi phía Bắc, Tin Lành Đê ga ở Tây Nguyên,… đã được giải quyết tốt nhờ ý thức cảnh giác của nhân dân và chính sách tôn giáo đúng đắn của Đảng và Nhà nước ta. Công tác đối ngoại tôn giáo thường xuyên được thực hiện tốt; qua đó, giúp bạn bè quốc tế hiểu được thực chất tình hình tự do tôn giáo ở nước ta hiện nay. Nhiều tổ chức tôn giáo nước ngoài đã đến thăm và làm việc với các tổ chức tôn giáo Việt Nam; ngược lại, nước ta cũng có nhiều phái đoàn tôn giáo sang thăm và làm việc tại nước ngoài (từ năm 1993 đến năm 2008 có gần 40.000 lượt giáo sĩ Việt Nam xuất cảnh).

Bên cạnh đó, công tác tôn giáo cũng còn những hạn chế, bất cập cần được khắc phục. Một bộ phận cán bộ, đảng viên chưa ý thức đầy đủ chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước cũng như tầm quan trọng của công tác tôn giáo trong tình hình mới. Phương pháp, cách thức và nội dung vận động đồng bào tôn giáo của các ban, ngành, đoàn thể trong hệ thống chính trị còn thiếu cụ thể, chậm đổi mới. Bộ máy làm công tác tôn giáo chưa thực sự được quan tâm, đầu tư đúng mức; chưa phân định rõ chức năng, nhiệm vụ, cơ chế phối hợp giữa các tổ chức trong hệ thống chính trị, nên dẫn đến hiện tượng chồng chéo, lấn sân hoặc lơ là, bỏ trống. Đội ngũ cán bộ làm công tác tôn giáo (nhất là ở cấp cơ sở) còn thiếu, trình độ chuyên môn, nghiệp vụ chưa đáp ứng đòi hỏi của tình hình mới. Trong lúc đó, các chủ trương, quan điểm của Đảng chậm được thể chế hóa; hệ thống chính sách, pháp luật về tôn giáo, tín ngưỡng chưa hoàn thiện, thiếu chế tài và còn nhiều điểm chưa phù hợp với thực tiễn của từng vùng, từng địa phương, nên khó đi vào cuộc sống.

Hiện nay, đất nước ta đã bước vào thời kỳ đẩy mạnh CNH,HĐH, tích cực hội nhập kinh tế quốc tế. Bên cạnh những thuận lợi là cơ bản, chúng ta cũng gặp phải không ít khó khăn, thách thức. Các thế lực thù địch đẩy mạnh chiến lược “Diễn biến hoà bình”, trong đó chúng rất coi trọng việc lợi dụng vấn đề tôn giáo để chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc, chống phá công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN. Vì vậy, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác tôn giáo trong tình hình hiện nay không những là việc làm thường xuyên mà còn mang tính cấp bách.

Trước hết, cần tiếp tục kiên định tư duy đổi mới về tôn giáo; khẳng định tôn giáo là một nhu cầu tinh thần của một bộ phận quần chúng nhân dân, đang và sẽ tồn tại lâu dài cùng quá trình xây dựng CNXH.

Hai là, tăng cường công tác nghiên cứu lý luận và tổng kết thực tiễn quá trình thực hiện các nghị quyết, chỉ thị của Đảng về công tác tôn giáo, góp phần cung cấp luận cứ khoa học cho việc xây dựng và hoạch định chủ trương, chính sách đối với tôn giáo.

Ba là, các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước phải thật sự tạo điều kiện cho các tôn giáo hoạt động bình thường theo Hiến pháp, pháp luật. Đồng thời, phát huy tinh thần tự giác đấu tranh của quần chúng có đạo nhằm làm thất bại mọi âm mưu lợi dụng tôn giáo để kích động, gây chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc và làm mất ổn định chính trị.

Bốn là, tăng cường sự lãnh đạo của cấp uỷ, sự quản lý, điều hành của chính quyền, sự tham gia, phối hợp của các đoàn thể chính trị - xã hội các cấp trong công tác vận động quần chúng tín đồ, chức sắc tôn giáo. Kêu gọi đầu tư và tăng cường thực hiện các chương trình, dự án phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội, nâng cao dân trí; tăng cường củng cố hệ thống chính trị, động viên quần chúng tôn giáo sống “tốt đời đẹp đạo”, tích cực tham gia các phong trào cách mạng, các hoạt động từ thiện nhân đạo…

Năm là, đẩy mạnh tuyên truyền, giáo dục nâng cao nhận thức về chính sách tôn giáo của Đảng, pháp luật của Nhà nước cho mọi công dân, trước hết là đội ngũ cán bộ, đảng viên (chú trọng đội ngũ cán bộ chủ trì), nhất là ở cấp cơ sở; tích cực xây dựng được đội ngũ đảng viên nòng cốt, quần chúng cốt cán trong vùng đồng bào có đạo.

Thực hiện tốt công tác tôn giáo là trách nhiệm của mọi người dân, trước hết là của hệ thống chính trị, nhất là của cấp uỷ, chính quyền các cấp. Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước và các cấp, các ngành đối với công tác tôn giáo trong tình hình hiện nay, nhất định sẽ nâng cao chất lượng khối đại đoàn kết toàn dân tộc, sự đồng thuận xã hội, tranh thủ được nguồn lực trí tuệ và vật chất của hơn 20 triệu tín đồ tôn giáo vào sự nghiệp xậy dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN.

NGUYỄN MẠNH HÙNG

Phó Trưởng ban Ban Dân vận Trung ương

 

Ý kiến bạn đọc (0)