QPTD -Thứ Tư, 30/11/2011, 01:04 (GMT+7)
Tận dụng thời cơ - bài học thành công của Cách mạng tháng Tám năm 1945
Trong lịch sử hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước, dân tộc ta đã trải qua bao cuộc kháng chiến chống những kẻ thù xâm lược lớn mạnh hơn gấp nhiều lần và giành được những thắng lợi vẻ vang. Thắng lợi giành được do nhiều yếu tố khách quan và chủ quan, trong đó có thành công của việc tạo dựng và nắm bắt, tận dụng thời cơ. Điều đó đã được đúc rút, vận dụng khá phổ biến và hết sức sáng tạo, trở thành nghệ thuật đặc sắc trong đấu tranh giành và giữ nền độc lập của dân tộc ta.

Dành cả cuộc đời cho sự nghiệp đấu tranh cách mạng giải phóng dân tộc, giải phóng nhân dân khỏi ách áp bức, bóc lột của chủ nghĩa thực dân, đế quốc, Chủ tịch Hồ Chí Minh rất coi trọng vấn đề thời cơ. Người khẳng định: “Làm cách mệnh phải biết dựa vào thời cơ và phải nhìn chung phong trào mọi nơi, mọi chốn mới chắc thắng". Bởi, thời cơ chỉ xuất hiện trong thời điểm nhất định; nếu nắm bắt, tận dụng triệt để thời cơ , chuẩn bị tốt các điều kiện cấu thành, hành động kịp thời, kiên quyết thì sẽ giành thắng lợi; ngược lại, nếu không tận dụng tốt thời cơ sẽ khó giành thắng lợi, sự nghiệp đấu tranh cách mạng kéo dài.

 Thắng lợi của cuộc Tổng khởi nghĩa tháng Tám năm 1945 của nhân dân ta, dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, lật đổ ách thống trị của thực dân, phong kiến là một điển hình mẫu mực của việc “... lực lượng chính trị của nhân dân đã kịp thời nắm lấy cơ hội thuận tiện nhất khởi nghĩa giành chính quyền Nhà nước”.
 Thật vậy, tháng 9-1939, chiến tranh thế giới lần II bùng nổ. Tháng 9-1940, phát xít Nhật nhảy vào chiếm đóng Đông Dương, hất cẳng Pháp. Nhận rõ thời cơ cách mạng đang đến gần, ngày 28-1-1941, lãnh tụ Nguyễn ái Quốc từ nước ngoài trở về nước cùng Trung ương Đảng trực tiếp lãnh đạo phong trào giải phóng dân tộc. Tháng 5-1941, Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh cùng Trung ương Đảng triệu tập Hội nghị Trung ương 8 tại Pắc Bó, Cao Bằng. Hội nghị là sự tiếp tục và hoàn chỉnh việc chuyển hướng chỉ đạo chiến lược cách mạng được nêu ra từ Hội nghị Trung ương 6: thực hiện chiến lược giải phóng dân tộc, đặt nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên hàng đầu. Hội nghị đã nhận định: nếu cuộc chiến tranh thế giới lần trước đẻ ra Liên Xô, một nước XHCN, thì cuộc đế quốc chiến tranh lần này sẽ đẻ ra nhiều nước XHCN, vì vậy mà cách mạng nhiều nước thành công. Cách mạng Việt Nam là một bộ phận của cách mạng thế giới, do đó: “Trong lúc này, quyền lợi của bộ phận, của giai cấp phải đặt dưới sự sinh tử, tồn vong của quốc gia, dân tộc. Trong lúc này, nếu không giải quyết được vấn đề dân tộc giải phóng, không đòi được độc lập, tự do cho toàn thể dân tộc, thì chẳng những toàn thể quốc gia dân tộc còn chịu mãi kiếp ngựa trâu, mà quyền lợi của bộ phận, giai cấp đến vạn năm cũng không đòi lại được”.
Thực hiện chủ trương chuyển hướng chỉ đạo chiến lược, sau Hội nghị Trung ương 8, Đảng ta bắt tay vào việc triển khai thực hiện nghị quyết, đẩy mạnh xây dựng, phát triển các lực lượng cách mạng, xây dựng căn cứ địa, xây dựng lực lượng vũ trang, xây dựng và củng cố cơ sở Đảng, tổ chức quần chúng, cơ sở cách mạng,…gấp rút chuẩn bị mọi điều kiện tạo lực, lập thế cho cách mạng, chuẩn bị mọi điều kiện sẵn sàng nổi dậy Tổng khởi nghĩa giành chính quyền khi thời cơ đến.
Trong khí thế đang lên của phong trào cách mạng, tháng 5-1944, Tổng bộ Việt Minh ra chỉ thị “Về sửa soạn khởi nghĩa”. Tháng 10-1944, Trung ương Đảng lại ra lời kêu gọi: “Sắm vũ khí đuổi thù chung”. Các địa phương ra sức củng cố xây dựng lực lượng vũ trang, tìm kiếm vũ khí, chuẩn bị khởi nghĩa giành chính quyền. Phong trào chuẩn bị khởi nghĩa sôi nổi, lan rộng khắp cả nước.
Tuy nhiên, Hồ Chí Minh cũng chỉ rõ những bước phát triển của lực lượng vũ trang và việc chuẩn bị vũ trang khởi nghĩa phải phù hợp với sự phát triển của tình thế cách mạng. Vấn đề quan trọng đặt ra là phải có đường lối chiến lược và sách lược đúng đắn; phải chuẩn bị lực lượng đầy đủ, tạo thời cơ và nắm vững thời cơ, để khi thời cơ đến có thể nhanh chóng huy động lực lượng, “chớp” thời cơ giành thắng lợi. Chính vì thế, ngay từ cuối năm 1941, Đảng ta đã chỉ đạo lập hai căn cứ địa, một ở Bắc Sơn - Đình Cả, một ở Cao Bằng- Bắc Cạn. Việt Nam Cứu quốc quân sinh ra trong cuộc khởi nghĩa Bắc Sơn, phát triển trong khu du kích Đình Cả, Tràng Xá. Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân thành lập trong phong trào đấu tranh chống khủng bố trắng ở Việt Bắc (1941-1945). Sau khi Nhật hất cẳng Pháp, nhiều đội quân du kích và các tổ chức, lực lượng chính trị Việt Minh được thành lập ở khắp các địa phương trên cả nước. Những đội quân trên đây đã đóng một vai trò hết sức quan trọng trong cao trào chống Nhật, cứu nước và trong cuộc Tổng khởi nghĩa tháng Tám năm 1945.
Tháng 10-1944, vừa từ Trung Quốc trở về, Hồ Chí Minh đã kịp thời hoãn cuộc khởi nghĩa do liên tỉnh uỷ Cao-Bắc-Lạng chuẩn bị phát động vào cuối năm 1944, do thời cơ chưa đến, kẻ thù vẫn còn mạnh. Việc kịp thời hoãn cuộc “khởi nghĩa non” đó đã tránh được cho cách mạng nhiều tổn thất.
Đầu năm 1945, chiến tranh Thế giới II bước vào giai đoạn cuối, tình hình thế giới biến chuyển có lợi, tạo những điều kiện mới, nhân tố mới cho phong trào cách mạng giải phóng dân tộc Việt Nam phát triển thành cao trào. Dự kiến đúng chiều hướng phát triển của tình hình, chủ động trước thời cuộc, đêm 9-3-1945, Nhật đảo chính Pháp, ngay sau đó, ngày 12-3-1945 Đảng đã ra Chỉ thị “Nhật-Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta”. Thực hiện theo Chỉ thị của Trung ương Đảng, công tác chuẩn bị mọi mặt, cả về lực lượng, vật chất và tinh thần được tiến hành chu đáo để đón thời cơ khởi nghĩa. Cùng cao trào kháng Nhật nổ ra mạnh mẽ trong cả nước, khởi nghĩa từng phần diễn ra ở nhiều nơi.
 Những cuộc khởi nghĩa từng phần đã có tác dụng tích cực và hiệu quả, góp phần thúc đẩy điều kiện khởi nghĩa trong cả nước mau chóng chín muồi. Đây chính là bước tạo thế và lực mới để sẵn sàng đón thời cơ tiến hành Tổng khởi nghĩa.
Ngày 14-8-1945, Nhật đầu hàng Đồng minh. Chính phủ bù nhìn Trần Trọng Kim rệu rã. Khí thế cách mạng của quần chúng bốc cao chưa từng thấy. Khắp nơi nổ ra những cuộc mít tinh, biểu tình, thị uy, có cuộc có tới hàng nghìn người tham gia. Hàng triệu quần chúng sẵn sàng đứng lên khởi nghĩa, ủng hộ Việt Minh, giành chính quyền. Các lực lượng trung gian đã ngả hẳn về phía cách mạng.
Được tin Nhật đầu hàng Đồng minh, ngay đêm 13-8-1945, Đảng ta đã kịp thời thành lập Uỷ ban khởi nghĩa và ra Quân lệnh số 1, khẳng định: “Giờ tổng khởi nghĩa đã đến! Cơ hội có một cho quân dân Việt Nam vùng dậy giành lấy quyền độc lập của nước nhà!... Chúng ta phải hành động cho nhanh với một tinh thần vô cùng quả cảm, vô cùng thận trọng!... Cuộc thắng lợi hoàn toàn nhất định sẽ về ta!". Hồ Chí Minh cũng khẳng định “Lúc này, thời cơ thắng lợi đã tới, dù hy sinh tới đâu, dù phải đốt cháy cả dãy Trường Sơn cũng phải kiên quyết giành cho được độc lập".
Cũng trong ngày 13-8, Hội nghị toàn quốc của Đảng khai mạc tại Tân Trào. Hội nghị quyết định: Đảng phải kịp thời phát động và lãnh đạo toàn dân khởi nghĩa, đề ra những nhiệm vụ cần thiết, cấp bách trong công tác đối nội, đối ngoại sẽ thi hành sau khi giành chính quyền.
Tiếp sau đó, Quốc dân Đại hội họp tại Tân Trào, tán thành chủ trương Tổng khởi nghĩa của Đảng, thông qua 10 chính sách của Mặt trận Việt Minh, thành lập Uỷ ban Giải phóng dân tộc Việt Nam do Hồ Chí Minh làm Chủ tịch.
Các sự kiện trọng đại đã diễn ra trong khí thế khẩn trương, bừng bừng của tổng khởi nghĩa càng chứng tỏ sự vận dụng nghệ thuật tận dụng, “chớp” thời cơ hết sức tài tình của Đảng ta, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh. Thời cơ của cách mạng tháng Tám chỉ tồn tại trong một thời gian rắt ngắn – từ sau khi Nhật đầu hàng Đồng minh đến trước khi quân Đồng minh vào Đông Dương. Trong tình thế ngặt nghèo, Đảng ta  đã hết sức khôn khéo, linh hoạt đẩy lùi nguy cơ để tạo ra thời cơ thuận lợi. Nếu khởi nghĩa sớm hơn, khi Nhật chưa đầu hàng, ta sẽ gặp sự kháng cự quyết liệt, có thể tổn thất lớn và khó giành thắng lợi, chính quyền cách mạng chưa thể thành lập trong toàn quốc. Nếu để muộn hơn, khi Đồng minh đã vào Đông Dương thì sẽ tình hình trở nên “vô cùng nguy hiểm”.
Nhờ chọn đúng thời cơ khởi nghĩa, ngày 19-8-1945 Tổng khởi nghĩa thắng lợi ở Hà Nội và chỉ trong vòng 15 ngày, Tổng khởi nghĩa đã diễn ra và thành công trong cả nước. Ngày 2-9-1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc Tuyên ngôn độc lập, thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa – Nhà nước công nông đầu tiên ở Đông Nam châu Á
Bài học nắm vững và triệt để tận dụng thời cơ của cách mạng tháng Tám năm 1945 được Đảng ta tiếp tục vận dụng và phát triển sáng tạo trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, hoàn thành sự nghiệp giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước. Trong công cuộc đổi mới đất nước, mở rộng hợp tác, hội nhập kinh tế quốc tế, với tư cách là thành viên của WTO, nước ta đang đứng trước thuận lợi, thời cơ, nhưng đồng thời cũng có không ít khó khăn, thách thức. Điều quan trọng là phải nắm vững đường lối, chủ trương của Đảng, tiếp tục đẩy mạnh công cuộc đổi mới toàn diện, phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc, khai thác tiềm năng, lợi thế, tận dụng thời cơ, vượt qua thách thức, đưa đất nước phát triển nhanh, bền vững, thực hiện thắng lợi mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh” mà Nghị quyết Đại hội  X của Đảng đã vạch ra.
ThS. Trần Thị Huyền

Viện Hồ Chí Minh và các lãnh tụ của Đảng

Học viện Chính trị – Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh

 

Ý kiến bạn đọc (0)