QPTD -Thứ Năm, 27/10/2011, 23:01 (GMT+7)
Tác chiến chiến lược trong chiến tranh giải phóng và vấn đề đặt ra trong chiến tranh bảo vệ Tổ quốc

Thực tiễn 30 năm tiến hành chiến tranh cách mạng (1945-1975) dưới sự lãnh đạo của Đảng cũng như kinh nghiệm lịch sử 4000 năm giữ nước cho thấy muốn giành thắng lợi triệt để trong chiến tranh, giải phóng hoàn toàn đất nước phải thực hiện những đòn đánh chiến lược, trước hết là tiêu diệt lực lượng chủ lực của địch. Trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, quân và dân ta đã hai lần thực hiện tiêu diệt chiến lược quân địch, lần sau lớn hơn lần trước, triệt để hơn lần trước. Năm 1954 với chiến dịch quyết chiến chiến lược Điện Biên Phủ ta đã giải phóng một nửa đất nước; năm 1975 bằng chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử đã giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước, mở ra thời kỳ mới đưa cả nước đi lên CNXH.

Về nghệ thuật quân sự, trong kháng chiến chống Pháp, Trung ương Đảng và Bộ Tổng Tư lệnh đã vận dụng đúng đắn các loại hình tác chiến chiến lược (TCCL), trong đó mở đầu toàn quốc kháng chiến ta đã chủ trương phòng ngự chiến lược nhằm làm suy yếu lực lượng tiến công của địch, hạn chế vùng chiếm đóng, bảo tồn và phát triển lực lượng. Đồng thời phát triển chiến tranh du kích đánh địch trên cả 3 vùng chiến lược, tạo thế và lực để chuyển sang phản công chiến lược giai đoạn 1948-1950 trên toàn chiến trường Đông Dương. Vào giai đoạn cuối chiến tranh, do thế và lực của ta đã phát triển mạnh và vững chắc, từ 1951 chúng ta đã bước sang giai đoạn tiến công chiến lược. Cuộc tiến công chiến lược Đông Xuân 1953-1954 với đỉnh cao là chiến dịch quyết chiến chiến lược Điện Biên Phủ đánh dấu bước phát triển vượt bậc trong nghệ thuật chỉ đạo chiến tranh của Đảng và nghệ thuật điều hành TCCL của Bộ Tổng Tư lệnh.

Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, các hoạt động tác chiến phát triển mạnh và rộng khắp đã đưa Mỹ và tay sai lâm vào cuộc khủng hoảng chính trị và thất bại liên tiếp về quân sự. Mặc dù Mỹ đã huy động tới 568.000 quân cùng vũ khí, phương tiện chiến tranh hiện đại, đánh phá trên cả 3 nước Đông Dương, mở rộng chiến tranh phá hoại bằng không quân và hải quân ra miền Bắc với những nấc thang cuối cùng, song lực lượng vũ trang (LLVT) và nhân dân ba nước Đông Dương đã lần lượt đánh bại các chiến lược của 5 đời Tổng thống Mỹ. Từ cuộc phản công chiến lược mùa khô 1966-1967 đánh bại các cuộc tiến công chiến lược của quân Mỹ, Ngụy Sài Gòn, tiêu diệt lớn lực lượng, vũ khí, phương tiện chiến tranh của chúng, đặc biệt là cuộc tiến công Mậu Thân 1968 trên toàn chiến trường miền Nam, cùng với các cuộc phản công chiến lược 1970-1971 ở Lào, Căm-pu-chia làm xoay chuyển tình thế cách mạng ở ba nước Đông Dương. Trên miền Bắc phản công có ý nghĩa chiến lược đánh bại cuộc tập kích đuờng không vào Hà Nội cuối năm 1972 buộc Mỹ phải ký Hiệp định Pa-ri về Việt Nam, tạo thế và lực mới cho cách mạng Việt Nam, để rồi mùa Xuân 1975 bằng chiến dịch quyết chiến chiến lược Hồ Chí Minh lịch sử, kết thúc 30 năm chiến tranh cách mạng giành thắng lợi hoàn toàn.

Như vậy, trong hai cuộc kháng chiến vừa qua, “Bộ Tổng Tư lệnh đã vận dụng 4 loại hình TCCL: TCCL phòng ngự, TCCL phản công, TCCL tiến công và TCCL phòng không”1. Về qui mô tác chiến, có chiến dịch có ý nghĩa chiến lược; đòn tiến công, phản công  chiến lược; chiến dịch quyết chiến chiến lược và chiến cục. Bốn qui mô trên do lực lượng toàn dân, lực lượng ba thứ quân tham gia, trong đó các binh đoàn chủ lực giữ vai trò quyết định. Về lực lượng, ở các chiến dịch quyết chiến chiến lược bao giờ cũng phải tạo ưu thế lớn hơn địch như trong chiến dịch Điện Biên Phủ ta tập trung 5 sư đoàn, tác chiến hiệp đồng binh chủng. Đến chiến dịch Hồ Chí Minh 1975, qui mô lực lượng tới 5 quân đoàn bộ binh, tác chiến quân-binh chủng hợp thành.Trong chiến dịch “Điện Biên Phủ trên không” ta tập trung 3 sư đoàn phòng không, 4 trung đoàn không quân, 6 trung đoàn, 23 tiểu đoàn và 346 đơn vị phòng không.

Hiện nay, cuộc đấu tranh giai cấp, dân tộc vẫn diễn ra quyết liệt, phức tạp, dưới những hình thức mới và cũ đan xen. Nhưng về cơ bản nó được phản ánh rõ qua 4 cuộc chiến tranh và các cuộc xung đột vũ trang, bạo loạn chính trị ở các khu vực trên thế giới. Đối với nước ta, các thế lực thù địch tiếp tục đẩy mạnh “diễn biến hòa bình”, gây bạo loạn chính trị nhằm xóa bỏ sự lãnh đạo của Đảng, xóa bỏ CNXH ở Việt Nam và sẵn sàng phát động chiến tranh xâm lược khi có thời cơ. Nếu xảy ra chiến tranh, rất có thể chúng ta sẽ bị kẻ địch bao vây cấm vận triệt để, phải tự lực và độc lập tác chiến, bị chia cắt chiến lược, phải phòng tránh, đánh trả các đòn tiến công hỏa lực đường không, đánh trả sức đột phá mạnh của bộ binh cơ giới, máy bay, xe tăng, thiết giáp của đối phương. Nhưng chúng ta có nhiều thuận lợi rất cơ bản: thế trận quốc phòng toàn dân đã được chuẩn bị từ thời bình sẵn sàng chuyển sang thế trận chiến tranh nhân dân chống xâm lược. Lực lượng vũ trang có nhiều kinh nghiệm chiến đấu, được rèn luyện qua hai cuộc kháng chiến, có lập trường chính trị vững vàng trước mọi diễn biến của tình hình, trung thành tuyệt đối với Đảng, với Tổ quốc, với nhân dân. Được sự lãnh đạo trực tiếp của Đảng có đường lối chính trị, quân sự đúng đắn, được nhân dân và bạn bè thế giới ủng hộ. Đất nước đổi mới, tiềm lực quốc phòng tăng lên, vị thế của Việt Nam ngày càng nâng cao trên thế giới, tạo thế và lực mới cho sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc XHCN. Nghệ thuật quân sự Việt Nam qua hai cuộc kháng chiến đã đánh bại các chiến lược, các kiểu chiến tranh, các loại hình tác chiến của địch và ngày càng tiếp tục phát triển phù hợp với tình hình cụ thể của đất nước.

Trong bốn cuộc chiến tranh xảy ra trên thế giới vừa qua đều mở đầu bằng giai đoạn tiến công hỏa lực đường không của không quân và tên lửa hành trình với cường độ cao, mật độ lớn. Với kinh nghiệm chín năm chống chiến tranh phá hoại bằng không quân ở miền Bắc, trong chiến tranh bảo vệ Tổ quốc, đánh địch tiến công hỏa lực đường không trở thành một loại hình TCCL được tiến hành ngay từ đầu chiến tranh do lực lượng phòng không ba thứ quân kết hợp với các lực lượng khác thực hiện. Nòng cốt là các chiến dịch phòng không nhằm tiêu hao, tiêu diệt nhiều lực lượng, vũ khí, phương tiện, đánh bại các cuộc tiến công bằng hỏa lực của địch. Đối tượng tác chiến là không quân, tên lửa hành trình, tàu chiến của địch. Lực lượng của ta tham gia gồm phòng không quốc gia, phòng không lục quân, phòng không nhân dân và các lực lượng khác, tạo thành thế trận rộng khắp, đánh địch từ xa đến gần, dưới sự chỉ huy thống nhất của Bộ Tổng tham mưu. Đánh thắng tiến công hỏa lực đường không của địch sẽ hạn chế, thậm chí ngăn chặn tiến công trên bộ của chúng.

Biển Việt Nam có vị trí chiến lược về kinh tế, quốc phòng-an ninh rất quan trọng. Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ X đã xác định “sớm đưa nước ta trở thành quốc gia mạnh về kinh tế biển trong khu vực, gắn với bảo đảm quốc phòng an ninh và hợp tác quốc tế” đặt ra cho quốc phòng nhiệm vụ phải bảo vệ vững chắc, toàn vẹn, chủ quyền, quyền chủ quyền, quyền tài phán và lợi ích quốc gia trên biển. Vì vậy tác chiến bảo vệ biển, đảo chống phong tỏa đường biển là loại hình TCCL sẽ xuất hiện trong chiến tranh bảo vệ Tổ quốc, diễn ra trên chiến trường biển đảo, trong đó có các chiến dịch do lực lượng hải quân, không quân, tên lửa, pháo binh, các quân khu ven biển tiến hành dưới sự lãnh đạo, chỉ huy của Bộ Tổng tham mưu, nhằm ngăn chặn, đánh bại tiến công của địch, bảo vệ các đảo, quần đảo và các vùng biển của Tổ quốc.

Để thực hiện mục tiêu xâm lược, xóa bỏ chế độ XHCN ở Việt Nam, kẻ địch sẽ phải thực hành tiến công trên bộ bằng lực lượng bộ binh, tác chiến quân binh chủng hợp thành nhằm thực hiện đánh nhanh, thắng nhanh, do đó tác chiến phòng thủ chiến lược là một trong hai loại hình TCCL cơ bản sẽ được vận dụng ngay từ ngày đầu chiến tranh trên phạm vi cả nước. Dựa vào thế trận chiến tranh nhân dân, vận dụng linh hoạt các hình thức tác chiến: phòng ngự, tiến công, phản công, kết hợp với các mặt đấu tranh khác, trong đó hoạt động tác chiến là chủ yếu, lực lượng vũ trang là nòng cốt dưới sự lãnh đạo, chỉ huy của chiến lược, nhằm ngăn chặn, tiêu hao lớn và tiêu diệt từng bộ phận lực lượng, phương tiện chiến tranh, đánh bại ý đồ đánh nhanh, thắng nhanh của chúng.

Trong cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc chống xâm lược, nhiều khả năng chúng ta phải đối phó với một kẻ địch sử dụng lực lượng tiến công ồ ạt ngay từ đầu, nhằm nhanh chóng “chặt đầu” bộ máy lãnh đạo kháng chiến, đè bẹp sự kháng cự của đối phương. Trên các hướng chiến lược chủ yếu, địch sẽ tổ chức các chiến dịch hiệp đồng quân binh chủng với qui mô lớn, tốc độ tiến công nhanh, sức đột phá mạnh, áp dụng nhiều thủ đoạn tác chiến để nhanh chóng đánh chiếm thủ đô, kết thúc chiến tranh trong thời gian ngắn. Trong khi đó, các mục tiêu chiến lược của ta mặc dù nằm ở trung tâm đất nước nhưng chỉ cách biên giới, bờ biển trên dưới 100 km; chiều sâu đất nước lại rất hẹp nên nguy cơ bị chia cắt chiến lược là rất lớn. Do vậy, để bảo vệ vững chắc các mục tiêu chiến lược, cùng với việc mở rộng không gian chiến trường, chủ động đánh địch từ xa, phải nghiên cứu và tổ chức tác chiến phòng ngự ở qui mô chiến lược. Tác chiến phòng ngự chiến lược là loại hình tác chiến xuất hiện trong chiến tranh bảo vệ Tổ quốc, được tiến hành từ thời kỳ đầu hoặc trong quá trình chiến tranh, diễn ra bằng các chiến dịch, các hoạt động tác chiến và các hình thức đấu tranh khác, trong đó chiến dịch- chiến lược phòng ngự là nòng cốt, do lực lượng chiến lược kết hợp với lực lượng phòng thủ trên địa bàn chiến lược tiến hành trong không gian và thời gian nhất định theo ý định và chỉ huy thống nhất của chiến lược nhằm ngăn chặn, tiêu hao, tiêu diệt chủ lực của địch, đánh bại lực luợng tiến công chiến lược chủ yếu của chúng, giữ vững mục tiêu, địa bàn chiến lược, tạo điều kiện cho các loại hình tác chiến khác. Tác chiến phòng ngự chiến lược được vận dụng trong thời kỳ đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp, từ đó đến nay chưa được nghiên cứu, phát triển, dẫn đến một số nhận thức không đúng, như Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã phê phán trong bài viết tại cuộc Hội thảo kỷ niệm 30 năm đại thắng mùa Xuân: “Tư tưởng chiến lược của chiến tranh cách mạng bao giờ cũng là tư tưởng tiến công còn hình thức tác chiến thì có tác chiến tiến công, tác chiến phòng ngự cả về chiến lược, chiến dịch và chiến đấu. Tuy nhiên do nhận thức không đúng nên trong một thời gian dài, một số cán bộ cho rằng chiến tranh cách mạng chỉ có tiến công, phủ nhận phòng ngự, thậm chí coi phòng ngự là điều cấm kỵ. Vì vậy mà trong một số trận đánh bộ đội bị thương vong”. Tổng kết TCCL cũng xác định “trong chiến tranh tương lai ngay từ đầu kháng chiến cũng như trong quá trình có thể xuất hiện loại hình tác chiến chiến lược phòng ngự”.

Thực chất mỗi loại hình TCCL nêu trên là nhằm đánh bại một giai đoạn tiến công của địch. Tác chiến đánh địch tiến công hỏa lực đường không nhằm đối phó với tiến công đường không của máy bay, tên lửa địch; tác chiến bảo vệ biển đảo, chống phong tỏa đường biển nhằm phá thế bao vây cấm vận trên biển của địch, bảo vệ biển đảo của ta; tác chiến phòng thủ chiến lược nhằm đánh trả địch tiến công trên bộ, đổ bộ đường biển, đổ bộ đường không trong chiều sâu đất nước; tác chiến phòng ngự chiến lược nhằm ngăn chặn, tiêu hao, tiêu diệt các tập đoàn tiến công chiến lược của chúng, bảo vệ các mục tiêu, địa bàn chiến lược của ta. Thực hiện thắng lợi các loại hình TCCL trên sẽ tạo điều kiện cho phản công, tiến công chiến lược, tiêu diệt lớn quân địch, giành thắng lợi quyết định trong chiến tranh bảo vệ Tổ quốc.

Mỗi loại hình TCCL dù được rút ra từ thực tiễn hoặc sẽ xuất hiện trong chiến tranh bảo vệ Tổ quốc trong tương lai đều phải được nghiên cứu, phát triển và hoàn thiện từng bước theo sự phát triển của tình hình thế giới, khu vực, tiềm lực của đất nước. Điều đó đặt ra cho công tác nghiên cứu chiến lược cũng như hoạt động thực tiễn của lực lượng vũ trang phải không ngừng phát triển nâng cao nghệ thuật quân sự nói chung và nghệ thuật TCCL nói riêng, sẵn sàng đánh bại mọi cuộc chiến tranh xâm lược của kẻ thù.

Thiếu tướng Nguyễn Như Huyền

Phó viện trưởng Viện Chiến lược quân sự

 

Ý kiến bạn đọc (0)