QPTD -Thứ Hai, 28/11/2011, 23:30 (GMT+7)
Quân khu 4 phấn đấu thực hiện tốt công tác chính sách thương binh, liệt sĩ, người có công với cách mạng và chính sách hậu phương quân đội
Quân khu 4 bao gồm 6 tỉnh: Thanh Hoá, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị và Thừa Thiên-Huế. Trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, mảnh đất này vừa là tiền tuyến vừa là hậu phương; góp phần quan trọng vào việc chi viện sức người, sức của cho các chiến trường trong nước và nước bạn. Nơi đây từng diễn ra nhiều trận chiến đấu vô cùng ác liệt; mỗi người dân “là một chiến sĩ”, mỗi tấc đất đều “trở thành chiến hào đánh Mỹ”. Trong hai cuộc kháng chiến đó, nhân dân các dân tộc trong Quân khu đã tiễn đưa gần 1,4 triệu lượt thanh niên đi chiến đấu ở các chiến trường, hàng triệu lượt người gia nhập thanh niên xung phong, dân công hoả tuyến và phục vụ chiến đấu tại chỗ. Kết thúc chiến tranh, theo số liệu tổng kết ban đầu, trên địa bàn 6 tỉnh của Quân khu đã có hơn 167.000 người hy sinh, gần 156.000 gia đình liệt sĩ, hơn 200.000 người bị thương được xếp hạng thương tật, hơn 45.000 người là bệnh binh, gần 5.000 mẹ được phong tặng danh hiệu vinh dự Nhà nước “Bà mẹ Việt Nam anh hùng”, hơn nửa triệu gia đình thuộc diện chính sách (chiếm gần 6% dân số). Chiến tranh đã qua đi, nhưng hậu quả của nó vẫn còn hết sức nặng nề đối với con người và mảnh đất Quân khu. Điều kiện kinh tế, cơ sở hạ tầng của các địa phương  vốn đã thấp kém lại bị chiến tranh tàn phá nặng nề càng làm cho đời sống nhân dân gặp muôn vàn khó khăn. Cấp uỷ, chính quyền và lực lượng vũ trang  (LLVT) các địa phương trong Quân khu đã nhận thức rõ: để xây dựng quê hương giàu mạnh, xứng đáng với truyền thống, tiềm năng của mình, một trong những vấn đề quan tâm hàng đầu là phải giải quyết tốt các tồn đọng sau chiến tranh, thực hiện tốt công tác chính sách, tạo sự đồng thuận trong toàn Đảng, toàn dân và toàn quân, giữ vững ổn định chính trị, phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội và quốc phòng - an ninh.

Thấu suốt đường lối, quan điểm của Đảng về nhiệm vụ công tác chính sách thương binh, liệt sĩ, người có công với cách mạng và chính sách hậu phương quân đội trong tình hình mới, Đảng uỷ, Bộ Tư lệnh Quân khu đã tập trung lãnh đạo, chỉ đạo các cơ quan chức năng quán triệt nghiêm túc các chỉ thị, nghị quyết, chủ trương của cấp trên về công tác chính sách; triển khai các kế hoạch vận động quần chúng nhân dân và cán bộ, chiến sĩ LLVT thực hiện tốt các mặt công tác chính sách của Đảng và Nhà nước. Đồng thời, chủ động phối hợp chặt chẽ với ngành Lao động, Thương binh và Xã hội các địa phương tham mưu cho cấp uỷ, chính quyền đề ra các biện pháp thực hiện tốt công tác chính sách thương binh, liệt sĩ, người có công với cách mạng và chính sách hậu phương quân đội phù hợp với sự phát triển kinh tế- xã hội trong thời kỳ mới. Do có sự thống nhất cao giữa Đảng uỷ, Bộ Tư lệnh Quân khu với Tỉnh uỷ, Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân và các ban, ngành, đoàn thể, các tổ chức quần chúng, nên công tác chính sách thương binh, liệt sĩ, người có công và chính sách hậu phương quân đội đã được quan tâm thực hiện có hiệu quả. Đây là một nhiệm vụ thường xuyên, một trọng tâm công tác của các cấp uỷ, chính quyền địa phương, nhằm góp phần xây dựng tiềm lực chính trị, củng cố quốc phòng, an ninh, phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội; đồng thời, cũng là một biểu hiện bày tỏ lòng biết ơn đối với người có công với nước, với cách mạng.

Chính quyền các cấp, các đơn vị  LLVT đã có những chương trình hành động cụ thể, thiết thực. Các phong trào: “Uống nước nhớ nguồn”, “Hành trình về các địa chỉ đỏ” của các tổ chức quần chúng (Phụ nữ, Thanh niên, Công đoàn, Cựu chiến binh, Hội Nông dân...) mang tính xã hội cao, góp phần quan trọng vào việc thực hiện tốt chính sách hậu phương quân đội; gây được ấn tượng tốt, có tính giáo dục cao, để lại niềm tin, tình cảm tốt đẹp trong lòng quần chúng nhân dân.
Nhờ sự nỗ lực của các tỉnh, thành, các cơ quan, đơn vị LLVT trên địa bàn, đến nay toàn Quân khu đã hoàn thành cơ bản việc giải quyết một số chính sách tồn đọng sau chiến tranh và chế độ cho các đối tượng chính sách. Đã quy tập được 20.728 hài cốt liệt sĩ quân tình nguyện và chuyên gia Việt Nam hy sinh ở Lào và 10.654 hài cốt liệt sĩ hy sinh trong nước (phần quân đội đảm nhiệm); hoàn thành cơ bản việc giải quyết thương binh, bệnh binh, báo tử liệt sĩ quân nhân mất tin, mất tích trong các cuộc chiến tranh; giải quyết chế độ cho 29.899 thương binh, 3.377 bệnh binh, báo tử liệt sĩ 1.210 trường hợp. Hoàn thành việc khen thưởng tồn đọng, như xét đề nghị khen thưởng 358.167 huân, huy chương các loại, đề nghị Nhà nước phong tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân cho 1.260 tập thể, 194 cá nhân; danh hiệu vinh dự Nhà nước "Bà mẹ Việt Nam anh hùng" cho 4932 mẹ; giải quyết trợ cấp cho 84.831 quân nhân, công nhân viên chức quốc phòng tham gia kháng chiến chống Pháp. Triển khai thực hiện chế độ cho một số đối tượng tham gia kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, đạt kết quả tốt. Vận động đóng góp xây dựng “Quỹ đền ơn đáp nghĩa” được gần 10 tỷ đồng; xây dựng 30.000 nhà tình nghĩa; tặng 50.000 sổ tiết kiệm, trị giá hàng chục tỷ đồng; nhận phụng dưỡng 628 Mẹ Việt Nam anh hùng...Hàng ngàn lượt cán bộ nghỉ hưu, các đối tượng chính sách đã được nghỉ dưỡng tại các đoàn điều dưỡng. Quân nhân xuất ngũ, phục viên, về hưu được các địa phương đón tiếp chu đáo, tận tình và  được hỗ trợ, tạo điều kiện để có việc làm, ổn định đời sống. Việc đỡ đầu con thương binh, con liệt sĩ đã được hệ thống các trường phổ thông và chuyên nghiệp ở các địa phương hết sức quan tâm. Công tác tuyển sinh, tuyển dụng, tuyển lao động đã chú trọng đến các đối tượng chính sách. Hàng chục ngàn quân nhân phục viên được đào tạo nghề, hướng nghiệp và tạo điều kiện có việc làm. Tuyệt đại bộ phận thương binh, bệnh binh, đối tượng chính sách đều có mức sống trung bình trở lên. Quân khu đã hoàn thành tốt công tác đón thương binh nặng về địa phương một cách tận tình, chu đáo. Nhiều thương binh, bệnh binh, quân nhân phục viên trở thành các chủ doanh nghiệp làm ăn chân chính, có thu nhập cao; nêu tấm gương sáng về gia đình cách mạng gương mẫu, người công dân kiểu mẫu trong thời kỳ đất nước đẩy mạnh CNH, HĐH và hội nhập kinh tế quốc tế. Phần lớn các gia đình chính sách trong Quân khu đều phấn đấu trở thành các gia đình văn hoá với mục tiêu: kinh tế phát triển, học tập tiến bộ, đoàn kết, đóng góp hiệu quả công sức, trí tuệ vào sự nghiệp xây dựng quê hương, đất nước.
Thực tiễn 60 năm thực hiện chính sách thương binh, liệt sĩ , người có công với cách mạng và chính sách hậu phương quân đội ở các địa phương của Quân khu 4 cho thấy rằng, công tác chính sách là một vấn đề rộng lớn và hết sức nhạy cảm, tác động trực tiếp đến tình cảm của mọi người dân, do đó đòi hỏi phải có biện pháp đồng bộ, phương thức linh hoạt, huy động được sức mạnh của toàn dân với phương châm “Nhà nước và nhân dân cùng làm”, “Trung ương và địa phương cùng chăm lo”. Đây là một nhiệm vụ lâu dài, thường xuyên, nhưng phải có trọng tâm, trọng điểm. “Lấy dân làm gốc”, xã hội hoá công tác chính sách là bài học thành công lớn nhất của công tác chính sách trong Quân khu 60 năm qua; đồng thời cũng là mục tiêu, động lực cho việc thực hiện các mặt công tác chính sách trong thời gian tới. Muốn làm tốt công tác chính sách, các ngành, các cấp phải tổ chức tốt việc điều tra, phúc tra, nắm chắc số lượng, diễn biến, đặc điểm địa bàn, khai thác công nghệ tiên tiến để từng bước đưa việc xác minh, lưu trữ hồ sơ vào nền nếp. Đội ngũ làm công tác chính sách phải được bồi dưỡng, giáo dục, tuyển chọn chặt chẽ, có ý thức, trách nhiệm cao, giàu tình thương và lòng nhân ái, yêu ngành, yêu nghề; thường xuyên chú trọng cải tiến tác phong, lề lối công tác; kiên quyết đấu tranh với các hiện tượng tiêu cực...
Nhằm thực hiện tốt hơn nữa công tác chính sách thương binh, liệt sĩ, người có công với cách mạng và chính sách hậu phương quân đội,  thiết thực kỷ niệm 60 năm Ngày thương binh, liệt sĩ (27/7/1947 -27/7/2007), Đảng uỷ Quân khu đã ra Nghị quyết lãnh đạo các đơn vị thực hiện tốt công tác này trong thời gian tới. Quán triệt và tổ chức thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đảng uỷ Quân khu, các đơn vị và địa phương cần tập trung đẩy mạnh công tác giáo dục, tuyên truyền, làm cho mọi cán bộ, đảng viên, chiến sĩ, công nhân viên chức quốc phòng nhận thức sâu sắc chính sách của Đảng và Nhà nước đối với thương binh, bệnh binh, gia đình liệt sĩ, người có công với cách mạng và chính sách hậu phương quân đội; tạo bước phát triển mới về chất lượng cuộc sống cho các đối tượng chính sách; phát triển sâu rộng các hoạt động “đền ơn đáp nghĩa”, “uống nước nhớ nguồn” ở các địa phương, cơ sở. Triển khai các chương trình kinh tế, xã hội, quốc phòng-an ninh; giúp đỡ vốn, kiến thức sản xuất, kinh doanh cho các đối tượng chính sách; chăm lo toàn diện công tác chính sách hậu phương quân đội; đẩy mạnh phong trào xây dựng “gia đình cách mạng gương mẫu”, “người công dân kiểu mẫu”;  đồng thời, phát huy tối đa nội lực của các đối tượng chính sách. Giải quyết dứt điểm các tồn đọng chiến tranh và xây dựng các chương trình hành động có tính khả thi cao, từng bước đưa việc thực hiện công tác chính sách vào nền nếp với chất lượng ngày càng tốt hơn, có chiều sâu và độ tin cậy vững chắc, toàn diện hơn.
Thực hiện tốt công tác chính sách là thể hiện đạo lý và truyền thống “Uống nước nhớ nguồn” của dân tộc ta, thể hiện lòng quý trọng và biết ơn của thế hệ hôm nay đối với lớp người đã hy sinh xương máu vì độc lập, tự do của Tổ quốc, là yêu cầu của sự nghiệp giáo dục công dân về lòng yêu nước và niềm tự hào dân tộc. Bằng tất cả tình cảm và trách nhiệm của mình, quân và dân Quân khu 4 phấn đấu đẩy mạnh việc thực hiện công tác chính sách thương binh, liệt sĩ, người có công với cách mạng, chính sách hậu phương quân đội và phong trào “Đền ơn đáp nghĩa”, góp phần đắc lực vào công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN.
Thiếu tướng Hoàng Trọng Tình
Ủy viên Thường vụ Đảng ủy,
Phó Chính ủy Quân khu
 

Ý kiến bạn đọc (1)

Giải quyết chính sách
01/10/2017 20:51
Tôi có người bạn tên Hòa nhập ngũ tháng 8/1985 quê quán Đại Sơn, Đô Lương, Nghệ An huấn luyện tại D27 BĐ 12 về đơn vị C1 E98 F473 BĐ 12 bị mất giấy tờ nay kê khai làm chế độ mà Phòng CS QK4 không công nhận. Đề nghị các cán bộ khiểm tra lại thông tin vì đó là lính thực thụ.
Nguyễn Đình Hiền