QPTD -Thứ Ba, 26/07/2011, 10:13 (GMT+7)
Quân đội tổ chức thực hiện tốt Luật Sĩ quan Quân đội nhân dân Việt Nam

Cán bộ quân đội, trong đó nòng cốt là đội ngũ sĩ quan giữ vị trí, vai trò đặc biệt quan trọng đối với quá trình xây dựng Quân đội nhân dân (QĐND) Việt Nam cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại. Hoàn thiện hệ thống luật và các chế độ, chính sách đối với sĩ quan là cơ sở pháp lý và là một đảm bảo hết sức cơ bản để xây dựng đội ngũ này đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ. Luật Sĩ quan QĐND được Quốc hội khoá X thông qua ngày 21-12-1999 (sau đây gọi tắt là Luật Sĩ quan 1999), qua 8 năm thực hiện đã cơ bản đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ. Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện còn bộc lộ một số vấn đề chưa phù hợp; đồng thời, trước sự phát triển mới của tình hình và yêu cầu xây dựng đội ngũ sĩ quan, Luật Sĩ quan 1999 cần được sửa đổi, bổ sung hoàn thiện hơn. Vì vậy, ngày 3-6-2008, Quốc hội khoá XII, tại kỳ họp thứ 3, đã thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Sĩ quan QĐND Việt Nam (sau đây gọi tắt là Luật Sĩ quan QĐND Việt Nam).

Luật Sĩ quan QĐND Việt Nam xác định rõ tiêu chuẩn chung của sĩ quan QĐND Việt Nam: có bản lĩnh chính trị vững vàng, tuyệt đối trung thành với Tổ quốc và nhân dân, với Đảng Cộng sản Việt Nam và Nhà nước Cộng hoà XHCN Việt Nam; có tinh thần cảnh giác cách mạng cao, sẵn sàng chiến đấu hy sinh, hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ được giao; có phẩm chất đạo đức cách mạng; cần kiệm liêm chính, chí công vô tư; gương mẫu chấp hành đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; phát huy dân chủ, giữ nghiêm kỷ luật quân đội; tôn trọng và đoàn kết với nhân dân, với đồng đội; được quần chúng tín nhiệm; có trình độ chính trị, khoa học quân sự và khả năng vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, quan điểm, chủ trương của Đảng và Nhà nước vào nhiệm vụ xây dựng nền quốc phòng toàn dân, xây dựng QĐND; có kiến thức về văn hoá, kinh tế, xã hội, pháp luật và các lĩnh vực khác; có năng lực hoạt động thực tiễn đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ được giao; tốt nghiệp chương trình đào tạo theo quy định đối với từng chức vụ... Việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Sĩ quan 1999 là nhằm làm rõ trách nhiệm, nghĩa vụ, quyền lợi và chính sách đối với sĩ quan, được tập trung vào năm vấn đề chính với nội dung chủ yếu như sau:

1. Về chức vụ cơ bản của sĩ quan: bổ sung chức vụ Chính ủy, Chính trị viên để thực hiện Nghị quyết 51-NQ/TW của Bộ Chính trị; bổ sung chức vụ Tư lệnh Bộ đội Biên phòng, Chỉ huy trưởng vùng Hải quân, Chỉ huy trưởng vùng Cảnh sát biển và các binh chủng. Đổi tên Tỉnh đội trưởng thành Chỉ huy trưởng Bộ Chỉ huy Quân sự tỉnh, Huyện đội trưởng thành Chỉ huy trưởng Ban Chỉ huy Quân sự huyện. Khi có chiến tranh thì Chỉ huy trưởng Bộ (Ban) Chỉ huy Quân sự tỉnh (huyện) là người chỉ huy thống nhất lực lượng bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương, dân quân, tự vệ.  

2. Về tuổi phục vụ tại ngũ của sĩ quan: nâng đều 2 tuổi theo cấp bậc quân hàm cho sĩ quan từ cấp úy đến cấp đại tá, nhằm khắc phục tình trạng hằng năm phải kéo dài độ tuổi phục vụ tại ngũ của sĩ quan với số lượng lớn; đồng thời, tiết kiệm nhân lực trong đào tạo, sử dụng. Khi quân đội có nhu cầu, sĩ quan có đủ phẩm chất, đạo đức, giỏi về chuyên môn nghiệp vụ, sức khoẻ tốt và tự nguyện, có thể được kéo dài tuổi phục vụ tại ngũ không quá 5 năm, nhằm tiếp tục phát huy những kiến thức, kinh nghiệm của sĩ quan, nhất là sĩ quan chuyên môn nghiệp vụ, cán bộ khoa học có trình độ cao, cán bộ chỉ huy, quản lý có nhiều kinh nghiệm thực tiễn mà vẫn giữ được tính đặc thù của lao động quân sự. Trường hợp đặc biệt, có thể kéo dài hơn, nhằm sử dụng những sĩ quan cấp cao được Đảng, Nhà nước giao đảm nhiệm những trọng trách. Số lượng sĩ quan thuộc diện này rất ít và phải được xem xét quyết định theo một quy trình chặt chẽ. Sĩ quan giữ chức vụ chỉ huy, quản lý, từ Tư lệnh Quân đoàn trở xuống do Bộ trưởng Bộ Quốc phòng (BQP) quy định nhưng không vượt quá hạn tuổi cao nhất theo cấp bậc quân hàm để phù hợp với phân cấp quản lý cán bộ.

3. Về cấp bậc quân hàm của sĩ quan tại ngũ: nâng bậc quân hàm cao nhất của ba chức vụ: Tiểu đoàn trưởng, Chính trị viên tiểu đoàn lên Trung tá; Trung đoàn trưởng, Chính ủy trung đoàn, Chỉ huy trưởng và Chính trị viên Ban Chỉ huy quân sự huyện lên Thượng tá; Lữ đoàn trưởng và Chính ủy lữ đoàn lên Đại tá. Luật quy định phải căn cứ vào các điều kiện: công tác ở địa bàn trọng yếu về quân sự, quốc phòng hoặc đơn vị có nhiệm vụ đặc biệt và bản thân có quá trình cống hiến xuất sắc để thăng quân hàm cao hơn một bậc so với cấp bậc quân hàm cao nhất. Quy định như vậy sẽ chặt chẽ hơn, đảm bảo sự công bằng và động viên được đội ngũ sĩ quan yên tâm công tác ở địa bàn trọng yếu và đơn vị có nhiệm vụ đặc biệt. Học viên tốt nghiệp đào tạo sĩ quan được phong quân hàm Thiếu úy; tốt nghiệp loại giỏi, loại khá ở những ngành đào tạo có tính chất đặc thù hoặc có thành tích xuất sắc được phong quân hàm Trung úy. Trường hợp đặc biệt, được phong quân hàm cao hơn theo quy định của Bộ trưởng BQP, nhằm khuyến khích, thu hút nhân tài phục vụ quân đội, nhất là trong những lĩnh vực mang tính đặc thù quân sự. Khi cấp bậc quân hàm hiện tại thấp hơn cấp bậc quân hàm cao nhất đối với chức vụ chỉ huy, quản lý cũng được xét thăng quân hàm sĩ quan trước hạn. Sĩ quan đến thời hạn xét thăng quân hàm mà chưa đủ điều kiện quy định thì được xét vào những năm tiếp theo.

4. Về chính sách đối với sĩ quan: Luật xác định, quân đội là “ngành lao động đặc biệt” làm nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc, nhằm phân biệt lao động trong lĩnh vực quân sự với các ngành lao động khác trong xã hội, để có cơ chế, chính sách riêng về đào tạo, sử dụng, tuyển dụng, điều động, luân chuyển, thời gian làm việc... Bổ sung quy định nâng lương cho sĩ quan cấp tướng, nhằm đảm bảo thống nhất, hợp lý giữa việc sử dụng và chế độ đãi ngộ đối với sĩ quan cấp tướng, phù hợp với các quy định về chế độ tiền lương của Chính phủ. Sĩ quan giữ nhiều chức vụ trong cùng một thời điểm thì được hưởng quyền lợi của chức vụ cao nhất và phụ cấp kiêm nhiệm chức danh lãnh đạo theo quy định. Bổ sung chính sách cho sĩ quan nếu nghỉ hưu trước hạn tuổi cao nhất theo cấp bậc quân hàm, do thay đổi tổ chức, biên chế hoặc hết hạn tuổi giữ chức vụ chỉ huy, quản lý đơn vị mà quân đội không còn nhu cầu sử dụng, thì ngoài lương hưu còn được hưởng trợ cấp một lần theo quy định của Chính phủ. Sĩ quan chuyển ngành, do yêu cầu được điều động trở lại phục vụ trong quân đội, thì thời gian chuyển ngành được tính vào thời gian công tác liên tục để xét thăng cấp bậc quân hàm và thâm niên công tác. Sĩ quan nghỉ theo chế độ bệnh binh được hưởng chế độ theo quy định của pháp luật về ưu đãi người có công với cách mạng và chế độ bảo hiểm xã hội theo quy định của Luật Bảo hiểm xã hội. Sĩ quan tại ngũ hy sinh thì thân nhân của sĩ quan được hưởng các chế độ theo quy định của pháp Luật về ưu đãi người có công với cách mạng và được hưởng trợ cấp một lần theo quy định của Chính phủ. Sĩ quan tại ngũ từ trần, thân nhân được hưởng các chế độ theo quy định của Luật Bảo hiểm xã hội và được trợ cấp một lần theo quy định của Chính phủ.

5. Về sĩ quan dự bị: Luật quy định căn cứ vào kế hoạch của Chính phủ, Bộ trưởng BQP, Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh và cấp huyện được quyền gọi đào tạo sĩ quan dự bị, gọi sĩ quan dự bị vào phục vụ tại ngũ thời chiến; huấn luyện, kiểm tra sẵn sàng động viên, sẵn sàng chiến đấu. Việc gọi sĩ quan dự bị làm nhiệm vụ khẩn cấp nhưng chưa đến mức động viên cục bộ và gọi sĩ quan dự bị vào phục vụ tại ngũ trong thời bình, thời hạn 2 năm, do Bộ trưởng BQP quyết định, v.v.

  Thực hiện tốt Luật Sĩ quan QĐND Việt Nam sẽ góp phần quan trọng xây dựng đội ngũ sĩ quan vững mạnh, đáp ứng yêu cầu xây dựng quân đội, bảo vệ Tổ quốc XHCN trong thời kỳ mới. Để thực hiện tốt những vấn đề đó, đòi hỏi sự quan tâm của tất cả các cấp, các ngành và toàn xã hội. Đối với các đơn vị quân đội, cần chú ý thực hiện tốt một số nội dung cơ bản sau:

Một là, các cơ quan chức năng tích cực tham mưu cho BQP hoàn chỉnh các văn bản dưới luật, trình Thủ tướng Chính phủ và Bộ trưởng BQP phê duyệt, ban hành để thực hiện Luật có hiệu quả. Theo chức năng của mình, các cơ quan rà soát toàn bộ các nội dung có liên quan đến việc thực hiện Luật, phát hiện những vấn đề còn bất cập, đề xuất bổ sung những nội dung còn thiếu, báo cáo cấp có thẩm quyền để có biện pháp thực hiện có hiệu quả. Trước mắt, cần khẩn trương hoàn chỉnh nội dung các nghị định để trình Chính phủ: 1. Nghị định của Chính phủ quy định nhóm chức vụ cơ bản và cấp bậc quân hàm cao nhất tương ứng với từng nhóm chức vụ cơ bản; quy định điều kiện, tiêu chuẩn để xác định địa bàn trọng yếu về quân sự, quốc phòng; 2. Nghị định quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Sĩ quan QĐND Việt Nam quy định về giấy chứng minh sĩ quan, đối tượng được kéo dài tuổi phục vụ tại ngũ và sĩ quan dự bị; 3. Nghị định quy định chi tiết thi hành một số điều về chế độ chính sách của Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Sĩ quan QĐND Việt Nam (quy định về quyền lợi của sĩ quan thôi phục vụ tại ngũ; sĩ quan nghỉ hưu trước hạn tuổi quy định theo cấp bậc quân hàm; sĩ quan chuyển ngành được điều động trở lại phục vụ trong quân đội và sĩ quan tại ngũ hy sinh, từ trần); 4. Nghị định quy định về chế độ bảo đảm nhà ở cho sĩ quan QĐND Việt Nam và Nghị định sửa đổi, bổ sung Nghị định số 204/2004/NĐ-CP ngày 14-12-2004 của Chính phủ về chế độ tiền lương đối với cán bộ, công chức, viên chức và lực lượng vũ trang. Hoàn thiện các thông tư trình Bộ trưởng BQP; các hướng dẫn thực hiện Luật trình Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị ký, ban hành thực hiện. Cùng với đó, các cơ quan cần chủ động đề xuất với BQP và Tổng cục Chính trị chỉ đạo thực hiện thông suốt về tư tưởng, chặt chẽ về tổ chức và bảo đảm đúng chính sách trong thực hiện Luật Sĩ quan QĐND Việt Nam.

Hai là, tổ chức thực hiện Luật Sĩ quan QĐND Việt Nam một cách nghiêm túc, chặt chẽ, có hiệu quả. Cấp ủy, chính ủy, chính trị viên, người chỉ huy và cơ quan chức năng các đơn vị tiếp tục nghiên cứu, nhận thức sâu sắc mục đích, ý nghĩa của việc sửa đổi, bổ sung và nội dung các điều của Luật Sĩ quan QĐND Việt Nam. Tổ chức thực hiện nghiêm túc, có hiệu quả các nội dung có liên quan sao cho quyền lợi của đội ngũ sĩ quan phải được bảo đảm, trách nhiệm của đội ngũ sĩ quan được nâng cao và các đơn vị, cơ quan hoàn thành nhiệm vụ tốt hơn. Đối với đội ngũ sĩ quan, cần nắm vững tiêu chuẩn của sĩ quan mà Luật đã quy định để không ngừng rèn luyện, học tập, phấn đấu nâng cao trình độ mọi mặt đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ được giao. Quá trình tổ chức thực hiện phải đồng bộ, chặt chẽ, tránh tình trạng nghiên cứu, quán triệt không kỹ, nhận thức chưa đầy đủ, dẫn đến thực hiện không đúng các quy định, làm hạn chế vai trò của Luật trong xây dựng đội ngũ sĩ quan QĐND Việt Nam.

Ba là, phát huy vai trò của cơ quan chính trị trong tổ chức thực hiện Luật. Do Luật Sĩ quan QĐND Việt Nam có nhiều điểm sửa đổi, bổ sung so với Luật Sĩ quan 1999, nên quá trình thực hiện không tránh khỏi những nhận thức và vướng mắc trong tổ chức thực hiện. Vì vậy, cơ quan chính trị các cấp cần phát huy vai trò, trách nhiệm của mình trong việc tổ chức, hướng dẫn thực hiện Luật. Cơ quan cán bộ cần chủ động nắm chắc tình hình, kịp thời phát hiện những vấn đề chưa thống nhất, kịp thời báo cáo cấp ủy, chính ủy, người chỉ huy để có chủ trương lãnh đạo, chỉ đạo khắc phục; đồng thời, tổng hợp những vấn đề còn bất cập, vượt quá thẩm quyền giải quyết, báo cáo cấp trên để có sự lãnh đạo, chỉ đạo kịp thời, bảo đảm cho việc thực hiện Luật đạt kết quả cao.

Bốn là, tích cực tuyên truyền, phổ biến Luật Sĩ quan QĐND Việt Nam trong mọi tầng lớp nhân dân. Nhằm tạo sự đồng thuận của nhân dân trong tổ chức thực hiện Luật, cần phát huy vai trò của các phương tiện thông tin đại chúng trong và ngoài quân đội cũng như của các đơn vị quân đội trong việc tuyên truyền, phổ biến và giáo dục nội dung Luật Sĩ quan QĐND Việt Nam cho các đối tượng với nhiều hình thức, biện pháp phù hợp. Trong quá trình tuyên truyền, cần làm cho người dân nhận thức rõ: nhiệm vụ xây dựng quân đội là trách nhiệm của cả xã hội; đồng thời, thấy rõ sự quan tâm của Đảng, Nhà nước, quân đội đối với đội ngũ sĩ quan; quyền lợi và trách nhiệm của sĩ quan, để họ tích cực động viên con em, nhất là học sinh, sinh viên giỏi phấn đấu trở thành sĩ quan quân đội, chọn binh nghiệp làm nghề nghiệp của mình.

Tiến hành đồng bộ bốn vấn đề nêu trên sẽ bảo đảm cho Luật Sĩ quan QĐND Việt Nam được thực hiện đầy đủ, hiệu quả, góp phần xây dựng đội ngũ sĩ quan vững mạnh, thực sự là lực lượng nòng cốt trong xây dựng QĐND, cùng toàn dân bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam XHCN.

Trung tướng NGÔ XUÂN LỊCH

Ủy viên BCHTƯ Đảng

Phó Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị

 

Ý kiến bạn đọc (0)