QPTD -Thứ Tư, 07/12/2011, 23:57 (GMT+7)
Quân đội đẩy mạnh sản xuất, tham gia phát triển kinh tế-xã hội, góp phần nâng cao sức mạnh chiến đấu bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới

Quân đội ta là “đội quân chiến đấu, đội quân công tác, đội quân lao động sản xuất”, từ nhân dân mà ra, vì nhân dân mà chiến đấu. Hơn 60 năm xây dựng, trưởng thành, dù trong điều kiện, hoàn cảnh nào, bên cạnh việc thực hiện tốt  nhiệm vụ chiến đấu, sẵn sàng chiến đấu (SSCĐ), quân đội ta cũng luôn tích cực lao động sản xuất, góp phần làm ra của cải vật chất cho xã hội và tự giải quyết một phần nhu cầu của quân đội. 

Trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, quân đội ta đã thành lập các xưởng quân giới để sản xuất, sửa chữa vũ khí phục vụ cho các mặt trận chiến đấu; đồng thời đẩy mạnh tăng gia sản xuất (TGSX) để  bộ đội “ăn no, đánh thắng” kẻ thù xâm lược, góp phần giành thắng lợi của cuộc kháng chiến, đưa  cách mạng nước ta chuyển sang thời kỳ mới.
Tuy nhiên, mốc son đánh dấu bước phát triển mới của nhiệm vụ sản xuất, xây dựng kinh tế của quân đội được gắn với Nghị định số 30/NĐ ngày 23-8-1956 của Bộ Quốc phòng (BQP) về việc thành lập Cục Nông binh để làm tham mưu giúp Bộ quản lý, điều hành thực hiện nhiệm vụ sản xuất, xây dựng kinh tế. Ngày 23-8 được lấy làm ngày truyền thống của ngành Kinh tế quân đội. Thời điểm này, BQP đã điều chuyển gần 8 vạn cán bộ, chiến sĩ vừa qua khói lửa chiến tranh sang hoạt động kinh tế, xây dựng đất nước. “Đội quân sản xuất” là lực lượng tiên phong  đến những miền đất gian khó, hoang vu, hoặc trở lại các chiến trường chưa hết bom đạn để “khai sơn, phá thạch”, xây dựng nên những nông trường, lâm trường, nhà máy, xí nghiệp, các công trình giao thông, thủy lợi, bệnh viện, trường học, từ Tây Bắc, Việt Bắc, Đông Bắc, ven biển Bắc bộ, vào đến Quân khu 4- tuyến đầu của miền Bắc xã hội chủ nghĩa (XHCN). Tính đến cuối năm 1960, khi có chủ trương của Bộ Chính trị chuyển các nông trường quân đội ra Bộ Nông trường, BQP đã bàn giao 29 nông trường với 153.025 ha đất và bảo đảm chính sách, chế độ cho 38.749 cán bộ, chiến sĩ, công nhân viên chuyển ra khỏi quân đội. Sự hình thành các nông trường quân đội đã tạo điều kiện để thực hiện điều chỉnh lực lượng, giảm quân số sau chiến tranh; đồng thời tạo lập thế bố trí chiến lược mới trên các địa bàn trọng yếu, thực hiện chủ trương kết hợp xây dựng kinh tế với củng cố quốc phòng trên miền Bắc XHCN.
Trong thời kỳ chống Mỹ, cứu nước, quân đội tiếp tục đẩy mạnh nhiệm vụ sản xuất, sửa chữa vũ khí trang bị và TGSX phục vụ các chiến trường. Năm 1973 BQP đã thành lập 20 trung đoàn sản xuất trên chiến trường miền Nam để bảo đảm cho các mặt trận, trong đó 15 trung đoàn đứng chân trên địa bàn Tây Nguyên, 5 trung đoàn ở Bãi Cát Tiên (thuộc Đông Nam Bộ). Các cơ sở này vừa tổ chức sản xuất lương thực, thực phẩm cung cấp cho các chiến trường, vừa  chuẩn bị thực hiện chức năng của kinh tế quốc doanh khi miền Nam được giải phóng.
Nước nhà độc lập, thống nhất, cách mạng Việt Nam bước vào thời kỳ mới, với hai nhiệm vụ chiến lược: xây dựng và bảo vệ Tổ quốc (BVTQ) XHCN. Theo đó, nhiệm vụ chính trị của quân đội ta là BVTQ và tham gia xây dựng đất nước. BQP đã điều chuyển một lực lượng lớn quân đội (lúc cao điểm lên tới 28 vạn người) sang tham gia xây dựng kinh tế đất nước. Phát huy truyền thống vẻ vang của quân đội anh hùng trong chiến tranh trên mặt trận mới, lực lượng tham gia sản xuất, xây dựng kinh tế của quân đội lại có mặt khắp mọi miền Tổ quốc, chủ yếu là những nơi khó, việc khó trên các địa bàn vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo để tham gia khôi phục đất nước bị chiến tranh tàn phá. Lực lượng sản xuất, làm kinh tế của quân đội đã tham gia xây dựng các công trình trọng điểm về hạ tầng giao thông, thủy lợi, thủy điện của quốc gia, như khôi phục tuyến đường sắt Bắc-Nam, nâng cấp tuyến Đông Trường Sơn từ Quảng Trị vào đến Đông Nam Bộ với hơn 1900 km, xây dựng tuyến đường chiến lược trên vành đai biên giới phía Bắc từ Quảng Ninh đến Lai Châu với trên 1.100 km, tham gia xây dựng đường dây 500 KV Bắc- Nam, thủy điện Hòa Bình... Cùng với đó, BQP điều chuyển các đoàn kinh tế ở Tây Nguyên, Đông Nam Bộ thời kỳ chiến tranh sang xây dựng các nông trường, lâm trường, các khu kinh tế mới dọc tuyến biên giới địa bàn này; thành lập các đoàn kinh tế chuyên canh lúa ở Tây Nam Bộ, từ Long An, Đồng Tháp, tứ giác Long Xuyên, vào đến vùng Cà Mau; trên miền Bắc hình thành các nông trường, lâm trường như Hàm Yên- Bắc Quang, Nam Long Đại, Con Hà Nừng... Thời kỳ này, các đơn vị kinh tế của quân đội đứng chân trên các tuyến biên giới vừa sản xuất, vừa SSCĐ, chiến đấu bảo vệ địa bàn hoạt động.     
Trong 20 năm thực hiện đường lối đổi mới do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo, nhất là đổi mới cơ chế quản lý nền kinh tế đất nước từ kế hoạch hóa tập trung, bao cấp sang nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, Đảng ủy Quân sự Trung ương, BQP đã có nhiều nghị quyết, chỉ thị lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện nhiệm vụ sản xuất, xây dựng kinh tế, phù hợp với chức năng, nhiệm vụ của quân đội và yêu cầu quản lý nền kinh tế đất nước. Lực lượng sản xuất, xây dựng kinh tế của quân đội từng bước được chấn chỉnh, củng cố, hoạt động có nền nếp, đạt hiệu quả toàn diện trên các lĩnh vực.    
Trước hết là, quân đội ta đã phát huy tốt vai trò nòng cốt xây dựng các khu kinh tế- quốc phòng (KT-QP), vừa tham gia phát triển kinh tế- xã hội (KT-XH), vừa củng cố quốc phòng- an ninh (QP-AN) trên các địa bàn chiến lược biên giới, vùng sâu, vùng xa, ven biển. BQP đã thành lập 19 Đoàn KT-QP làm lực lượng nòng cốt xây dựng 19 khu KT-QP trên các địa bàn chiến lược, tại những vị trí then chốt trên tuyến biên giới đất liền; đồng thời, triển khai 3 dự án lấn biển để tạo điều kiện dãn dân vùng đồng bằng Bắc bộ, kết hợp tăng cường thế trận hướng biển. Các khu KT-QP, các dự án lấn biển đã và đang phát huy hiệu quả cả về KT-XH, QP-AN, được Đảng, Nhà nước, các địa phương và dư luận xã hội đánh giá cao. Các Đoàn KT-QP đã phối hợp với địa phương xây dựng cơ sở hạ tầng, kết hợp với bố trí lại dân cư trong vùng dự án, trước hết là xây dựng hệ thống giao thông, các công trình thuỷ lợi, thủy điện, các cơ sở y tế, trường học, hệ thống phát thanh, truyền hình, nhà văn hoá; xây dựng các trạm sản xuất cây giống, con giống phục vụ chương trình khuyến nông, khuyến lâm; tham gia thực hiện các dự án định canh, định cư cho dân; khai hoang trồng mới trên 30.000 ha cây công nghiệp; giải quyết việc làm cho trên 17.000 lao động, trong đó có hơn 6.000 lao động là người dân tộc thiểu số. Có thể nói, khu KT-QP là chỗ dựa tin cậy cho đồng bào các dân tộc làm ăn, sinh sống trên tuyến biên giới, vùng sâu, vùng xa; giúp nhân dân thực hiện các chương trình xoá đói, giảm nghèo, từng bước chuyển dịch cơ cấu sản xuất, dịch vụ. Nhờ đó, thu nhập của người lao động và hộ gia đình nơi đây từng bước được nâng lên, tỷ lệ hộ đói nghèo còn rất thấp. Điểm nổi bật nữa là, các khu KT-QP đã góp phần thay đổi cơ cấu dân cư, hình thành hệ thống các điểm dân cư mới tập trung thôn, bản, xã, thị tứ, thị trấn  trên vành đai biên giới, tạo cơ sở cho phát triển kinh tế, xây dựng hệ thống chính trị vững mạnh làm nền tảng xây dựng nền quốc phòng toàn dân, gắn với an ninh nhân dân bảo vệ địa bàn. 
Hai là, các doanh nghiệp quân đội (DNQĐ) - lực lượng chủ yếu trong thực hiện nhiệm vụ sản xuất, xây dựng kinh tế của quân đội, đồng thời là lực lượng nòng cốt trong việc giữ gìn, phát triển năng lực sản xuất quốc phòng, góp phần nâng cao sức mạnh chiến đấu của quân đội, tiếp tục được sắp xếp lại, đổi mới, nâng cao hiệu quả hoạt động. Số lượng đầu mối các DNQĐ được tinh giảm, phù hợp với tổ chức biên chế và chức năng, nhiệm vụ của quân đội. Từ trên 300 doanh nghiệp thời kỳ cao điểm, sau khi sắp xếp lại, toàn quân còn 166 doanh nghiệp, với tổng số vốn nhà nước là 4.790 tỉ đồng; trong đó có 84 doanh nghiệp hoạt động công ích, phục vụ nhiệm vụ quân sự, quốc phòng thời bình và sẵn sàng cho thời chiến, cùng 82 doanh nghiệp hoạt động kinh doanh.
Trong điều kiện cạnh tranh gay gắt của nền kinh tế thị trường, các DNQĐ  đã tích cực đổi mới công nghệ, quản lý, từng bước nâng cao sức cạnh tranh, mở rộng thị trường, khẳng định vị trí trong môi trường kinh doanh mới, vững vàng bám trụ trên các địa bàn chiến lược, sản xuất và cung cấp ngày càng nhiều sản phẩm có chất lượng cao, phục vụ quốc phòng và xã hội. Phần lớn các DNQĐ hoạt động có hiệu quả, hệ thống trang thiết bị và trình độ công nghệ có bước phát triển đáng kể; một số doanh nghiệp thuộc lĩnh vực bay dịch vụ, bưu chính- viễn thông, may mặc, sửa chữa và dịch vụ cảng biển... được trang bị máy móc, thiết bị hiện đại ở mức tiên tiến so với trong nước. Doanh thu hằng năm của các DNQĐ tăng trưởng khá, năm sau cao hơn năm trước. Chỉ tính năm 2005, tổng số doanh thu của các DNQĐ đạt trên 19.000 tỷ đồng; nộp ngân sách 1.380 tỷ đồng; lợi nhuận đạt 1.150 tỷ đồng. Vốn của Nhà nước cấp được bảo toàn và phát triển. Kết quả hoạt động sản xuất, kinh doanh của các DNQĐ đã góp phần giữ gìn, phát triển năng lực sản xuất quốc phòng, nâng cao sức mạnh chiến đấu của quân đội và giải quyết một phần nhu cầu của các đơn vị.  
Ba là, lực lượng bộ đội thường trực tham gia sản xuất, xây dựng kinh tế   với nhiều hình thức phong phú, không chỉ quanh bếp, quanh nhà mà còn tổ chức các trạm, trại tăng gia sản xuất (TGSX) tập trung. Hầu hết các đơn vị đã  tự túc được rau ăn quanh năm (các đảo nổi Trường Sa tự túc được trên 80% rau xanh mà trước đây phải đưa từ đất liền ra); một số đơn vị giải quyết được trên 70% nhu cầu về thịt, cá, đậu cho bữa ăn hằng ngày của bộ đội. Cùng với các đơn vị SSCĐ, các cơ sở nghiên cứu khoa học, các nhà trường, bệnh viện, đã phát huy được những thế mạnh của mình để tổ chức làm dịch vụ theo đúng qui định của Nhà nước, quân đội, góp phần tăng nguồn thu tài chính, tái đầu tư mua sắm trang thiết bị và cải thiện đời sống bộ đội. Bằng các hình thức và biện pháp thích hợp, các lực lượng thường trực đã tạo ra khối lượng vật chất lớn, tăng thêm nguồn thu tài chính (năm 2004 đạt 685 tỉ đồng, năm 2005 đạt 750 tỉ đồng), đưa vào cải thiện bữa ăn hằng ngày của bộ đội và giải quyết một phần nhu cầu của đơn vị.
Từ thực tiễn quân đội tham gia sản xuất, xây dựng kinh tế 50 năm qua, chúng ta có thể khẳng định: Quân đội tham gia sản xuất, xây dựng kinh tế là một giải pháp có hiệu quả, không những góp phần làm ra của cải vật chất cho xã hội, mà còn góp phần giữ gìn và phát triển năng lực sản xuất quốc phòng, nâng cao sức mạnh chiến đấu BVTQ; tạo nguồn thu bổ sung cho ngân sách quốc phòng, giải quyết một phần nhu cầu của quân đội, cải thiện đời sống bộ đội; quân đội tham gia sản xuất, xây dựng kinh tế đã thực sự trở thành một nguồn nội lực của đất nước để giải quyết những vấn đề khó khăn về KT-XH, góp phần  vào việc điều chỉnh thế bố trí chiến lược BVTQ, tăng cường tiềm lực và thế trận QP-AN trên các địa bàn chiến lược biên giới, vùng sâu, vùng xa và trên các hải đảo, vùng biển đặc quyền kinh tế của đất nước. 
 Thời gian tới, yêu cầu của sự nghiệp xây dựng và BVTQ đang đặt ra cho quân đội ta những đòi hỏi ngày càng cao cả về chất lượng, hiệu quả và phương thức hoạt động sản xuất, làm kinh tế. Theo đó, đi đôi với thực hiện tốt nhiệm vụ chiến đấu, SSCĐ, quân đội ta tiếp tục đẩy mạnh sản xuất, tham gia phát triển KT-XH và đáp ứng mục tiêu QP-AN, tạo ra thế trận kinh tế- quốc phòng trên các địa bàn chiến lược, nhất là trên vành đai biên giới; giữ gìn và từng bước phát triển năng lực quốc phòng, góp phần nâng cao sức mạnh chiến đấu của quân đội, tạo nguồn cho ngân sách quốc phòng, cải thiện đời sống bộ đội. Đặc biệt, trong giai đoạn hiện nay, quân đội ta tiếp tục phấn đấu trở thành một nguồn lực của đất nước trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, là lực lượng nòng cốt giải quyết các vấn đề về QP-AN, KT-XH trên các địa bàn chiến lược biên giới, hải đảo, vùng đặc quyền kinh tế. Trong quá trình thực hiện nhiệm vụ sản xuất, xây dựng kinh tế phải luôn lấy hiệu quả phát triển KT-XH, giữ vững ổn định chính trị, củng cố QP-AN làm mục tiêu;  quán triệt và thực hiện nghiêm túc các chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước và các qui định của BQP trong sản xuất, xây dựng kinh tế. Theo tinh thần đó, lực lượng sản xuất, làm kinh tế của quân đội tập trung thực hiện tốt các nội dung chủ yếu sau. 
 Đẩy mạnh xây dựng, nâng cao hiệu quả hoạt động của các Đoàn KT-QP là vấn đề có ý nghĩa chiến lược lâu dài của quân đội ta. Trên cơ sở Quy chế  hoạt động của Đoàn KT-QP do BQP ban hành, phải tạo được bước chuyển biến mới từ các cơ quan quản lý Nhà nước, BQP trong tổ chức điều hành, quản lý hoạt động đầu tư xây dựng các khu KT- QP. Ngoài việc hoàn thiện xây dựng và nâng cao hiệu quả hoạt động của các khu KT- QP đã có, cần nghiên cứu triển khai xây dựng một số khu quốc phòng- kinh tế với mục tiêu chủ yếu là tăng cường QP-AN trên những địa bàn nhạy cảm về QP-AN trên tuyến biên giới đất liền, biển đảo. Phát huy sức mạnh tổng hợp về tổ chức, lao động và khả năng cơ động của quân đội kết hợp với các biện pháp động viên thanh niên, động viên nguồn lực địa phương và sức mạnh của Nhà nước để đẩy nhanh tiến độ xây dựng các khu KT-QP. Tăng cường phối hợp, kết hợp chặt chẽ giữa các cấp, các ngành, các cơ quan tiến hành rà soát lại các chính sách hiện hành; điều chỉnh, bổ sung một số chính sách phù hợp với từng địa bàn, tạo điều kiện để quản lý và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực. Xác định lại mục tiêu đầu tư của các dự án khu KT-QP theo hướng xây dựng các công trình đầu tư phục vụ trực tiếp đời sống của người dân và phù hợp với tốc độ bảo đảm vốn đầu tư của Nhà nước; xây dựng tiêu chí xóa đói, giảm nghèo cho dân theo quy định của Nhà nước, từ đó xác định lại lộ trình và tiến độ đỡ đầu, đón nhận các hộ dân theo kế hoạch đến định cư, làm ăn sinh sống phù hợp với điều kiện và tình hình hiện nay. Đồng thời, nhanh chóng xác định lại cơ cấu cây trồng, vật nuôi tại từng khu KT- QP; đẩy mạnh hoạt động khuyến nông, khuyến lâm, khuyến ngư; nâng cao hiệu quả thực hiện chương trình xoá đói, giảm nghèo để sớm ổn định đời sống cho nhân dân. Kết hợp chặt chẽ giữa phát triển cơ sở hạ tầng giao thông, thủy lợi, tổ chức sản xuất với việc hình thành những cụm dân cư tập trung dọc tuyến biên giới, tạo nền tảng cho xây dựng cơ sở chính trị, xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân gắn với thế trận an ninh nhân dân bảo vệ địa bàn. 
 Tiếp tục nghiên cứu sắp xếp, đổi mới, nâng cao hiệu quả hoạt động của  các DNQĐ. Thực hiện đa dạng hoá các hình thức hoạt động sản xuất, xây dựng kinh tế kết hợp với quốc phòng, coi trọng phát triển những ngành kinh tế mũi nhọn và những lĩnh vực quân đội có lợi thế; tạo điều kiện đầu tư cho các doanh nghiệp hoạt động ở vùng biên giới, ven biển, đặc biệt là các doanh nghiệp hoạt động trên biển. Các DNQĐ phải đặt trọng tâm vào hoàn thành tốt nhiệm vụ quốc phòng, gắn nhiệm vụ của doanh nghiệp với nhiệm vụ sản xuất, sửa chữa vũ khí, trang bị, vật chất hậu cần phục vụ quân đội và tham gia phát triển kinh tế kết hợp với quốc phòng của các đơn vị. Tích cực đổi mới công nghệ, phát huy mọi tiềm năng và nguồn lực, tự lực vươn lên để giữ gìn và phát triển năng lực sản xuất quốc phòng, vừa nâng cao hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp trong thời bình, vừa sẵn sàng đáp ứng yêu cầu quốc phòng khi có tình huống. Đối với Hải quân, cần ưu tiên đầu tư tăng cường lực lượng, phương tiện để vừa nâng cao năng lực đánh bắt hải sản xa bờ, vừa tăng cường khả năng thực hiện chủ quyền kinh tế và bảo đảm QP-AN trên các vùng biển đặc quyền kinh tế của nước ta.
Các đơn vị thường trực trong khi đặt trọng tâm vào hoàn thành nhiệm vụ chính trị trung tâm, cần đẩy mạnh và nâng cao hiệu quả TGSX, giải quyết một phần nhu cầu của đơn vị và cải thiện đời sống vật chất, tinh thần của bộ đội. Tận dụng diện tích mặt đất, mặt nước và các điều kiện thuận lợi khác để tổ chức bộ đội sản xuất theo các hình thức phù hợp với điều kiện thực tế đơn vị. Ngoài TGSX quanh bếp, quanh nhà, tiếp tục đầu tư xây dựng các cơ sở chăn nuôi, trồng trọt tập trung ở cấp trung đoàn, sư đoàn đủ quân; xây dựng các điểm TGSX tập trung gắn với căn cứ hậu cần các sư đoàn và cơ quan quân sự các tỉnh trên từng địa bàn, khu vực. Đẩy mạnh áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật để nâng cao năng suất và chất lượng sản phẩm, phấn đấu giải quyết đủ rau ăn quanh năm và phần lớn nhu cầu thịt lợn, gia cầm, gia súc, cá, đậu phụ..., nhằm cải thiện đời sống bộ đội.
Đối với các cơ sở nghiên cứu, đào tạo, các bệnh viện, các cơ sở bảo đảm kỹ thuật của các ngành, đơn vị, cần tận dụng năng lực, thế mạnh của mình tham gia làm kinh tế theo đúng pháp luật của Nhà nước và qui định của BQP, tạo nguồn thu tài chính, góp phần cải thiện đời sống cán bộ, công nhân viên và đóng góp một phần ngân sách cho phát triển của ngành, đơn vị.
Phát huy truyền thống vẻ vang và kế thừa những kinh nghiệm quý trong nửa thế kỷ qua, lực lượng sản xuất, xây dựng kinh tế của quân đội ta tiếp tục phấn đấu hoàn thành thắng lợi nhiệm vụ sản xuất, xây dựng kinh tế, góp phần thực hiện thành công sự nghiệp BVTQ và tham gia phát triển KT-XH đất nước trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, hội nhập quốc tế.
 
Thượng tướng Nguyễn Văn Rinh
Thứ trưởng Bộ Quốc phòng
                       
 

Ý kiến bạn đọc (0)