QPTD -Chủ Nhật, 14/08/2011, 00:10 (GMT+7)
Phòng, chống “Diễn biến hòa bình” và nguy cơ “Cách mạng màu” ở Việt Nam

"Diễn biến hoà bình" (DBHB) và “Cách mạng màu” (CMM) là những âm mưu, thủ đoạn chiến lược rất nguy hiểm của các thế lực thù địch nhằm chống phá độc lập dân tộc và CNXH trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội; tập trung vào lật đổ chính quyền đương nhiệm, chuyển hoá chế độ xã hội theo quỹ đạo của chủ nghĩa tư bản (CNTB). Những âm mưu, thủ đoạn chiến lược đó làm cho CNXH và phong trào cách mạng trên thế giới bị tổn thất to lớn và đứng trước những nguy cơ, thách thức gay gắt. Sự sụp đổ của chế độ XHCN ở Liên Xô và các nước Đông Âu trong những năm cuối thế kỷ XX; sự mất ổn định và lâm vào khủng hoảng của một số nước hiện nay cho thấy tính chất đặc biệt nguy hại của DBHB và CMM.

Có thể hiểu CMM là phương thức giành chính quyền bằng biểu tình; thực chất, là cuộc đảo chính chính trị nhằm lật đổ chính quyền không thân phương Tây thông qua các chiến dịch tuyên truyền, đề cao các “giá trị dân chủ” tư sản; đặc biệt là thông qua các chiến dịch vận động tranh cử được tài trợ bởi các tổ chức chính phủ và phi chính phủ với sự tham gia của các cố vấn, các nhà ngoại giao và các nhà xã hội học phương Tây. Cách làm này đã từng phát huy tác dụng đối với một số nước trên thế giới, như: Nam Tư (năm 2000), Gru-di-a (năm 2003), U-crai-na (năm 2004), Cư-rơ-gư-xtan (năm 2005)... Tuy có tính độc lập tương đối nhưng DBHB và CMM gắn bó hữu cơ với nhau. DBHB tạo điều kiện và thời cơ để CMM có thể xảy ra và đạt được mục tiêu chủ yếu là tạo dựng ra được chính quyền mới theo kịch bản của các thế lực thù địch. CMM được tiến hành trên cơ sở những kết quả mà DBHB mang lại. Trong những điều kiện lịch sử - cụ thể, các thế lực thù địch có thể thực hiện thành công chiến lược DBHB mà không nhất thiết phải tiến hành CMM. Tuy nhiên hiện nay, khi đẩy mạnh chiến lược DBHB, các thế lực thù địch thường tiến hành CMM để thúc đẩy nhanh sự chuyển hoá chế độ xã hội, trước hết và quyết định nhất là thay đổi bộ máy lãnh đạo, điều hành đất nước theo kịch bản của chúng. Do đó, cuộc đấu tranh phòng, chống DBHB phải gắn chặt với đấu tranh phòng ngừa nguy cơ CMM; làm thất bại những âm mưu, thủ đoạn DBHB của các thế lực thù địch và làm triệt tiêu những điều kiện, thời cơ xảy ra CMM.

Do có vị trí chiến lược rất quan trọng và là một trong những nước XHCN còn lại đang tiến hành thắng lợi công cuộc đổi mới, cho nên, Việt Nam là một trong những trọng điểm chống phá của các thế lực thù địch. Chúng đang ra sức đẩy mạnh chiến lược DBHB và không loại trừ khả năng tiến hành CMM để chống phá cách mạng nước ta. Một trong những thách thức đối với sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc đã được Đảng ta chỉ ra là: “Hoạt động “diễn biến hoà bình”, bạo loạn lật đổ của các thế lực thù địch sẽ gia tăng. Các thế lực phản động tiếp tục sử dụng chiêu bài dân chủ, nhân quyền để can thiệp vào nội bộ ta”1. Đây thực sự là một nguy cơ lớn đối với sự ổn định và phát triển của đất nước. Bởi vậy, chủ động phòng, chống DBHB và nguy cơ CMM là vấn đề đặc biệt quan trọng đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN. Theo đó, chúng ta cần quán triệt những nội dung cơ bản có ý nghĩa chiến lược sau đây:

 1. Phòng, chống DBHB và CMM của các thế lực thù địch là một bộ phận quan trọng trong Chiến lược bảo vệ Tổ quốc; là nhiệm vụ trọng yếu thường xuyên và cấp bách hàng đầu trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN; là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị, của toàn dân và lực lượng vũ trang nhân dân. Có thực hiện tốt nhiệm vụ này mới bảo đảm cho đất nước luôn chủ động về chiến lược trong mọi tình huống, ổn định và phát triển bền vững. Những năm qua, toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta đã đề cao cảnh giác, tích cực đấu tranh phòng, chống DBHB, giữ vững ổn định chính trị - xã hội để đất nước phát triển từng bước vững chắc. Nhưng, trước diễn biến phức tạp và những yêu cầu mới của sự phát triển, trước những hoạt động chống phá của các thế lực thù địch, chúng ta còn bộc lộ không ít hạn chế cần được khắc phục kịp thời. Điều đó đòi hỏi, trong hoạch định và tổ chức thực hiện Chiến lược bảo vệ Tổ quốc, trước hết, cần chủ động dự báo những tình huống chiến lược về quốc phòng - an ninh có thể xảy ra, xác định rõ những chủ trương, giải pháp đối phó tích cực và có hiệu quả; tích cực “bảo vệ Tổ quốc từ xa”, chủ động phòng ngừa, sớm phát hiện, ngăn chặn mọi nguy cơ từ bên ngoài để triệt tiêu những yếu tố bất lợi có thể dẫn đến nguy cơ xung đột vũ trang, chiến tranh cục bộ. Chiến lược bảo vệ Tổ quốc phải đặc biệt đề phòng nguy cơ từ bên trong - hiện tượng “Tự diễn biến” (sự suy thoái về chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống... trong một bộ phận cán bộ, đảng viên) và coi phòng, chống “Tự diễn biến” là vấn đề có ý nghĩa sống còn của chế độ ta. Thanh niên, sinh viên - những người nắm giữ tương lai của đất nước - là đối tượng dễ bị kích động, lôi kéo tham gia CMM của các thế lực thù địch. Do vậy, giáo dục nâng cao nhận thức, định hướng chính trị đúng đắn cho thanh niên là nhiệm vụ hết sức cần thiết và phải trở thành một nội dung quan trọng của Chiến lược bảo vệ Tổ quốc XHCN. 

2. Mục tiêu cơ bản của phòng, chống DBHB và CMM là bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam XHCN, trước hết và quan trọng nhất là bảo vệ độc lập dân tộc và chế độ XHCN, giữ vững môi trường hoà bình ổn định và phát triển bền vững của đất nước. Chiến lược bảo vệ Tổ quốc có mục tiêu cơ bản là bảo vệ vững chắc độc lập dân tộc, sự thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, chủ quyền quốc gia và chế độ XHCN, môi trường hoà bình, ổn định và phát triển bền vững của đất nước... Đó là mục tiêu bao trùm, chủ đạo và chi phối toàn bộ sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN. Tuy nhiên, trong những điều kiện lịch sử - cụ thể, căn cứ vào sự vận động phát triển của tình hình, chúng ta cần xác định cụ thể những nhiệm vụ, chủ trương và giải pháp đấu tranh cho phù hợp, có hiệu quả.

 Nghiên cứu sự điều chỉnh chiến lược của các thế lực thù địch thời gian gần đây cho thấy: mục tiêu chủ yếu của chúng trong tiến hành chiến tranh xâm lược kiểu mới, trong đẩy mạnh DBHB và CMM không phải là xâm chiếm lãnh thổ, mà là lật đổ chính quyền đương nhiệm, tạo dựng chính quyền mới, chuyển hoá chế độ xã hội theo quỹ đạo của CNTB do chúng điều khiển và thao túng. Đối với Việt Nam, các thế lực thù địch ra sức lợi dụng những khó khăn và yếu kém của chúng ta để đẩy mạnh DBHB nhằm chống phá độc lập dân tộc và CNXH; tập trung vào xoá bỏ chế độ XHCN, không loại trừ khả năng chúng tiến hành CMM để thúc đẩy nhanh việc chuyển hoá chế độ xã hội ở nước ta. Việc nước ta hội nhập sâu và toàn diện hơn vào nền kinh tế thế giới, lại bị tác động tiêu cực từ “cơn bão” khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu, sẽ là điều kiện thuận lợi để các thế lực thù địch đẩy mạnh DBHB và tiến hành CMM. Vì vậy, trong đấu tranh phòng, chống DBHB và CMM, chúng ta cần coi trọng hàng đầu nhiệm vụ bảo vệ độc lập dân tộc gắn chặt với bảo vệ chế độ XHCN, bảo vệ Đảng và Nhà nước XHCN, giữ vững môi trường hoà bình, ổn định và phát triển bền vững của đất nước theo định hướng XHCN.

3. Kết hợp chặt chẽ phòng, chống DBHB và CMM với giữ vững định hướng XHCN trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội; kết hợp tích cực phòng, chống “Tự diễn biến” với chủ động tiến công làm thất bại mọi âm mưu, thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch. Trong quá trình xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN, chúng ta phải luôn chủ động đối phó với 4 nguy cơ  mà Đảng ta đã chỉ ra từ Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khoá VII (tháng 01-1994): nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế so với nhiều nước trong khu vực và trên thế giới do điểm xuất phát thấp, nhịp độ tăng trưởng chưa cao và chưa vững chắc, lại phải đi lên trong môi trường cạnh tranh gay gắt; nguy cơ chệch hướng XHCN nếu không khắc phục được những lệch lạc trong chủ trương, chính sách và chỉ đạo tổ chức thực hiện; nguy cơ về nạn tham nhũng và tệ quan liêu; nguy cơ DBHB của các thế lực thù địch.

Trước sự phát triển của tình hình và nhiệm vụ, các nguy cơ đó tồn tại đan xen, tác động tổng hợp và diễn biến phức tạp. Trong đó, chúng ta cần chú ý đến sự liên hệ, tác động qua lại của nguy cơ chệch hướng XHCN (nguy cơ bên trong) với nguy cơ DBHB và CMM của các thế lực thù địch (nguy cơ bên ngoài) để làm chuyển hoá chế độ xã hội. Sự sụp đổ của chế độ XHCN ở Liên Xô và các nước Đông Âu trong những thập kỷ cuối thế kỷ XX đã cho chúng ta bài học rất sâu sắc về vấn đề này.

Trong sự vận động của xã hội Việt Nam hiện nay đã và đang xuất hiện những lệch chuẩn về giá trị theo định hướng XHCN, đáng chú ý là trong lĩnh vực chính trị - tư tưởng. Không ít người ngộ nhận, ảo tưởng có thể dựa vào phương Tây để làm cho “dân giầu, nước mạnh”. Có khuynh hướng tuyệt đối hoá kinh tế và khoa học - công nghệ hiện đại, coi nhẹ vai trò của hệ tư tưởng và định hướng giá trị đối với sự phát triển của con người và xã hội. Chúng ta không thể chấp nhận thái độ cho rằng “khỏi cần một thứ chủ nghĩa nào cả, miễn sao được giầu có và tự do”(!). Về hình thức, đó là sự tiêm nhiễm triết lý sống tư sản; nhưng về bản chất, suy đến cùng đấy là sự chệch hướng sang con đường tư bản chủ nghĩa. Chúng ta cần cảnh giác cao trước những tác động của DBHB và ảnh hưởng tiêu cực từ mặt trái của kinh tế thị trường làm cho không ít người bị cuốn hút vào vòng xoáy của chủ nghĩa cá nhân, cơ hội, thực dụng; đáng chú ý là sự chuyển hoá từ cơ hội, thực dụng về kinh tế sang cơ hội, thực dụng về chính trị, từ tha hoá về đạo đức và lối sống sang tha hoá về chính trị - tư tưởng là rất dễ xảy ra.

Khoa học quản lý hiện đại đã đúc kết: một quốc gia - dân tộc muốn ổn định và phát triển bền vững, trước hết, cần coi trọng hàng đầu việc lựa chọn và giữ vững định hướng phát triển đúng đắn, từ đó xây dựng và tổ chức thực hiện thắng lợi chiến lược phát triển tối ưu của đất nước. Không giữ vững định hướng phát triển sẽ mắc sai lầm nghiêm trọng về chiến lược, làm cho đất nước lâm vào tình trạng mất ổn định và khủng hoảng, tạo điều kiện cho các thế lực thù địch bên ngoài can thiệp.

Với những bài học rút ra từ sự thăng trầm của CNXH hiện thực và từ thực tiễn Việt Nam, chúng ta cần và có thể đúc kết thành vấn đề có tính quy luật trong công cuộc bảo vệ Tổ quốc XHCN: phòng, chống DBHB và CMM phải kết hợp chặt chẽ với giữ vững định hướng XHCN, tích cực phòng, chống “'Tự diễn biến”.

4. Phát huy sức mạnh tổng hợp của khối đại đoàn kết toàn dân tộc được định hướng và quy tụ bởi chủ nghĩa yêu nước Việt Nam, do Đảng Cộng sản lãnh đạo và Nhà nước XHCN quản lý, điều hành; kết hợp chặt chẽ sức mạnh của dân tộc với sức mạnh của thời đại để phòng, chống DBHB và CMM. Đây là một nguyên tắc chiến lược, quán triệt quan điểm tổng hợp trong lãnh đạo và tổ chức đấu tranh phòng, chống DBHB và CMM. Sức mạnh tổng hợp của khối đại đoàn kết toàn dân tộc được định hướng và quy tụ bởi chủ nghĩa yêu nước Việt Nam là một đặc trưng bản chất và là một ưu thế vượt trội để giành chiến thắng trong suốt quá trình dựng nước, giữ nước của dân tộc ta. Nhờ đó, chúng ta có thể tranh thủ được sự đồng tình, ủng hộ to lớn của các lực lượng yêu chuộng hoà bình và tiến bộ trên thế giới, kết hợp chặt chẽ sức mạnh của dân tộc với sức mạnh của thời đại để vượt qua mọi khó khăn, thách thức và giành chiến thắng.

Để phát huy sức mạnh tổng hợp trong đấu tranh phòng, chống DBHB và CMM của các thế lực thù địch, trước hết và quan trọng nhất là không ngừng hoàn thiện, nâng cao hiệu lực cơ chế Đảng lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt, Nhà nước quản lý, điều hành tập trung thống nhất, nhân dân làm chủ đối với nhiệm vụ quốc phòng bảo vệ Tổ quốc. Đây cũng là một đặc trưng bản chất của Chiến lược bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN - một chiến lược “lấy dân làm gốc”, thực sự của dân, do dân, vì dân và do Đảng Cộng sản lãnh đạo, Nhà nước XHCN quản lý, điều hành. Sự vận hành có hiệu lực của cơ chế đó có ý nghĩa quyết định để chúng ta có thể hội tụ được đầy đủ các yếu tố “thiên thời, địa lợi, nhân hoà”, trong đó “nhân hoà” là yếu tố có tính quyết định, tạo nên sự chuyển hoá cả về thế, thời và lực để giành thắng lợi trong đấu tranh phòng, chống DBHB và CMM, bảo đảm cho đất nước luôn chủ động về chiến lược trong mọi tình huống và vững bước trên con đường XHCN.

Trung tướng, PGS, TS. NGUYỄN TIẾN BÌNH

Học viện Quốc phòng

___________

1 - Ban Tư tưởng - Văn hoá Trung ương - Tài liệu học tập Nghị quyết Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp hành Trung ương khoá IX, Nxb CTQG, H. 2003, tr. 43-44.

 

Ý kiến bạn đọc (0)