Thứ Năm, 24/04/2025, 15:37 (GMT+7)
Ấn phẩm tạp chí in
Trước yêu cầu nhiệm vụ quốc phòng-an ninh (QP-AN) trong tình hình mới và từ thực trạng nền công nghiệp quốc phòng (CNQP) của đất nước, năm 2003, Bộ Chính trị đã ra Nghị quyết số 27- NQ/TW về xây dựng và phát triển CNQP những năm trước mắt và lâu dài. Theo đó, phương hướng, mục tiêu xây dựng và phát triển CNQP của nước ta được xác định: Xây dựng và phát triển CNQP thành bộ phận cấu thành quan trọng của tiềm lực QP-AN, có trình độ khoa học-công nghệ (KH-CN) tiên tiến, hiện đại, có năng lực nghiên cứu, sản xuất, sửa chữa, cải tiến, hiện đại hoá các loại vũ khí, trang bị kỹ thuật (VKTBKT) quân sự với tính năng kỹ thuật, chiến thuật và chất lượng cao. Phấn đấu để CNQP nước ta đạt được phát triển mới về chất, đáp ứng yêu cầu của chiến lược trang bị cho quân đội, công an và các lực lượng vũ trang khác, góp phần nâng cao sức mạnh chiến đấu, bảo vệ vững chắc Tổ quốc trong mọi tình huống.
Quán triệt và thực hiện Nghị quyết số 27- NQ/TW, những năm qua, chúng ta đã tập trung phát triển tiềm lực CNQP cả về số lượng (quy mô, chủng loại, công suất của các dây chuyền công nghệ…) và chất lượng, trong đó có việc nâng cao trình độ KH-CN của CNQP. Đây là một nhiệm vụ quan trọng, cấp bách để xây dựng và phát triển CNQP nước ta.
Ngày nay, trình độ KH-CN của CNQP được coi là một trong những tiêu chí hàng đầu để đánh giá, so sánh tiềm lực CNQP giữa các nước. Nội hàm phạm trù này không chỉ chứa đựng chuyên môn khoa học, kỹ thuật thuần tuý mà còn chứa đựng nhiều thành tố tổng hợp trong sự gắn kết của CNQP với các lĩnh vực quân sự, chính trị, kinh tế…, của mỗi quốc gia.
Dưới góc độ quân sự, trình độ KH-CN của CNQP nước ta không thể tách rời với trình độ KH-CN trong bảo đảm VKTBKT, bảo đảm kỹ thuật của quân đội, nó gắn liền với sự phát triển của nghệ thuật quân sự Việt Nam và tính sáng tạo, độc đáo trong khai thác, sử dụng VKTBKT… Mặt khác, đánh giá trình độ KH-CN của CNQP cần phải đặt trong tổng thể tiềm lực KH-CN của đất nước (năng lực nghiên cứu, chất lượng nhân lực, máy móc, thiết bị, hệ thống tiêu chuẩn- đo lường- chất lượng, bảo vệ môi trường...). Đó là chưa kể sự tùy thuộc lẫn nhau trong điều kiện mở cửa, hội nhập quốc tế; mà theo đó, các tiêu chí đánh giá trình độ KH-CN của CNQP cũng phải tương thích với xu hướng chung của thế giới và khu vực trong phát triển KH-CN nói chung và khoa học, kỹ thuật quân sự nói riêng. Trên những cơ sở đó, việc đánh giá trình độ KH-CN của CNQP theo hai mô hình cơ bản. Đó là, mô hình phát triển kỹ thuật, chủ yếu giải quyết nhu cầu cấp bách trước mắt về bảo đảm VKTBKT cho tác chiến, lấy sản phẩm quân sự làm mục tiêu để định hướng xây dựng tiềm lực KH-CN. Mô hình này cho phép tập trung nguồn lực vào việc giải quyết nhanh những nhu cầu thường xuyên về các sản phẩm quân sự cần cho các lực lượng vũ trang. Mặc dù ít gặp rủi ro hơn về đầu tư, nhưng mô hình này có nhiều hạn chế trong phát triển dài hạn về trình độ KH-CN của CNQP. Mô hình phát triển công nghệ, tập trung phát triển tiềm lực KH-CN của CNQP; từ đó, giải quyết nhu cầu về các sản phẩm quân sự cụ thể. Mô hình này ưu tiên hướng tới các lợi ích lâu dài để KH- CN quân sự với những giải pháp mới, phương tiện mới phục vụ cho tác chiến. Tuy nhiên, nó cũng đòi hỏi phải chấp nhận nhiều rủi ro phát sinh và quy mô đầu tư lớn.
Hiện nay, một số nước trước đây theo mô hình phát triển kỹ thuật (tiêu biểu là nước Nga) đang thực hiện chuyển sang mô hình phát triển công nghệ. Tuy vậy, do nhiều nguyên nhân, nhất là hạn chế về khả năng tài chính, KH-CN, nên nhiều quốc gia vẫn phải duy trì mô hình phát triển kỹ thuật và áp dụng có chọn lọc một số yếu tố phù hợp trong mô hình phát triển công nghệ.
Cũng cần thấy rằng, dù đi theo mô hình nào thì muốn phát triển CNQP nói chung và phát triển trình độ KH-CN của CNQP nói riêng, đều phải đối mặt với những thách thức cần giải quyết để đạt được kết quả về "sản phẩm mới" và "công nghệ mới".
Để có sản phẩm mới, vấn đề quan trọng là phải tạo được bước đột phá trong chuyển dịch cơ cấu sản phẩm của CNQP nước ta từ chế tạo VKTBKT cho bộ binh là chủ yếu như trước đây, chuyển sang làm chủ thiết kế- công nghệ sản xuất, sửa chữa, cải tiến, hiện đại hoá nhiều chủng loại VKTBKT cho các quân chủng, binh chủng (trong đó có nhiều sản phẩm mà trước đây phải dựa vào các nguồn viện trợ hoặc mua sắm, nhập ngoại). Đối với trình độ KH-CN của CNQP nước ta, đây là nhiệm vụ rất nặng nề, khó khăn, cần có giải pháp đồng bộ và bước đi phù hợp. Bởi lẽ, việc chuyển dịch cơ cấu sản phẩm từ chế tạo vũ khí "cơ khí truyền thống" sang các loại vũ khí có điều khiển và tích hợp hệ thống đặt ra nhiều thách thức mới. So với vũ khí bộ binh, sản xuất vũ khí cho các quân chủng, binh chủng kỹ thuật đòi hỏi phải có quy mô lớn, trình độ cao về thiết kế, KH-CN trong quá trình chế tạo, sửa chữa, cải tiến, hiện đại hoá vũ khí. Vũ khí bộ binh thường chỉ sử dụng cho mục đích quân sự, nhưng vũ khí các quân chủng, binh chủng có rất nhiều đặc điểm lưỡng dụng (nhiều điểm tương đồng về công nghệ và cơ cấu giữa tàu chiến với tàu dân sự, giữa ra-đa cảnh giới với ra-đa khí tượng, giữa máy bay chiến đấu với máy bay dân dụng…). Vì thế, phương thức kết hợp quốc phòng với kinh tế, kinh tế với quốc phòng trong lĩnh vực này cũng phải có sự điều chỉnh cho phù hợp; cần đổi mới cách nghĩ, cách làm trong quản lý vĩ mô cũng như trong hoạt động của các cơ sở nghiên cứu, sản xuất.. Xu hướng chung là phải ưu tiên cho nghiên cứu chế thử và sản xuất các mẫu mới; coi trọng tính tối ưu trong quy mô công suất của các dây chuyền công nghệ theo hướng phát triển các mô đun sản xuất nhỏ hoặc vừa, nhưng có trình độ công nghệ hiện đại, có khả năng linh hoạt chuyển hướng sang các mẫu sản phẩm mới; mở rộng phân công chuyên môn hoá để thu hút nhiều viện, nhiều cơ sở sản xuất trong và ngoài quân đội tham gia...
Đối với công nghệ mới, để đạt được các yêu cầu của Nghị quyết 27- NQ/TW, chúng ta cần triển khai đồng bộ các biện pháp, bao gồm:
1. Phát triển tiềm lực nghiên cứu KH-CN phục vụ CNQP, bao gồm nhiều nội dung như: Xây dựng mới và hiện đại hoá các cơ sở nghiên cứu, thiết kế VKTBKT, các phòng thí nghiệm quốc gia, hạ tầng vật chất kỹ thuật phục vụ thử nghiệm vũ khí mới. Đầu tư trang bị mới các phương tiện, dụng cụ thí nghiệm, hệ thống tiêu chuẩn-đo lường-chất lượng phục vụ CNQP. Hoàn thiện hệ thống quy trình, quy phạm quản lý thiết kế công nghệ quân sự, sở hữu công nghiệp, chuyển giao công nghệ, các bộ tài liệu công nghệ cơ bản phục vụ sản xuất, sửa chữa VKTBKT, hệ thống thông tin KH-CN gắn với CNQP.
2. Đổi mới, hiện đại hoá các dây chuyền công nghệ, máy móc, thiết bị trong các nhà máy CNQP. Từng bước chuyển đổi công nghệ sản xuất, sửa chữa VKTBKT từ trình độ cơ khí, hoá chất phổ thông và truyền thống hiện nay sang công nghệ điều khiển, tự động hoá, vật liệu mới…, theo hướng tăng dần tỷ trọng công nghệ lươỡng dụng. Đối với công nghệ sửa chữa, cải tiến, hiện đại hoá VKTBKT phải giảm dần phương thức sửa chữa "thủ công" (sửa chữa phục hồi biệt lập cho từng đơn vị VKTBKT) để chuyển sang phương thức sửa chữa "thay thế cụm" tiên tiến hơn, có tính công nghiệp hơn, đạt năng suất, chất lượng cao hơn. Mở rộng phạm vi và chiều sâu phân công chuyên môn hoá, nâng cao khả năng tích hợp hệ thống công nghệ nhiều trình độ, nhiều hệ tiêu chuẩn khác nhau để vừa tận dụng tối đa năng lực hiện có, vừa không cản trở quá trình ứng dụng công nghệ mới vào thực tiễn CNQP.
3. Coi trọng xây dựng nguồn nhân lực cả về số lượng và chất lượng. Từng bước chuyển dịch cơ cấu lao động kỹ thuật của CNQP, ưu tiên cho việc đào tạo những ngành nghề công nghệ cao, huấn luyện kỹ năng và bí quyết công nghệ mới; đặc biệt coi trọng bồi dưỡng, sử dụng các tổng công trình sư và các nhà khoa học có trình độ cao.
4. Phát triển trình độ KH-CN của CNQP phải gắn với bảo vệ môi trường (nhất là đối với những lĩnh vực công nghệ mới có sự nguy hiểm, độc hại), phải đặt trong tổng thể chung về quy hoạch và quản lý môi trường của công nghiệp và KH-CN quốc gia. Đối với các cơ sở CNQP đang hoạt động, cần tăng cường giải pháp để bảo vệ môi trường; riêng các dự án đầu tư xây dựng mới phải lựa chọn công nghệ, kỹ thuật an toàn, các biện pháp phòng chống cháy, nổ và các hạng mục xử lý ô nhiễm môi trường sinh thái, xử lý chất thải…
Để tiếp tục thúc đẩy sự phát triển trình độ KH-CN của CNQP nước ta, góp phần thực hiện thắng lợi các mục tiêu đặt ra trong Nghị quyết 27- NQ/TW của Bộ Chính trị, thời gian tới, cần tập trung giải quyết những vấn đề chủ yếu sau.
Trước hết, phải tạo được sự thống nhất trong nhận thức về tầm quan trọng, tính cấp bách cũng như các nội dung, nhiệm vụ, biện pháp thúc đẩy sự phát triển trình độ KH-CN của CNQP. Đây phải là một quá trình lâu dài, cần có bước đi cụ thể và phải giải quyết đồng bộ, toàn diện nhiều vấn đề có liên quan như: phát triển năng lực nghiên cứu thiết kế- công nghệ, hiện đại hoá năng lực chế tạo, sửa chữa, cải tiến, hiện đại hoá VKTBKT tại các nhà máy, đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao…
Hai là, lựa chọn đúng trọng điểm ưu tiên để tập trung nguồn lực vào những hướng đột phá, có khả năng đẩy nhanh và lôi kéo sự phát triển về trình độ KH-CN của CNQP. Coi trọng đầu tư các dây chuyền công nghệ có trình độ tiên tiến so với thế giới và khu vực, hiện đại hoá máy móc, thiết bị, tăng cường năng lực gia công chính xác, các trang bị công nghệ hiện đại, các thiết bị tự động hoá, điều khiển kỹ thuật số… Ưu tiên phát triển những lĩnh vực công nghệ cao trong thiết kế, chế tạo, kiểm tra và thử nghiệm các sản phẩm quân sự.
Ba là, đổi mới phương thức huy động nguồn lực. Tích cực mở rộng đối tượng thu hút trong các ngành KH-CN và công nghiệp dân sinh tham gia các đề tài nghiên cứu, thiết kế, chế tạo, sửa chữa VKTBKT, chuyển giao công nghệ và nghiên cứu ứng dụng các thành tựu công nghệ mới vào phát triển CNQP, nhất là những lĩnh vực KH-CN mới, có tính lưỡng dụng cao như: công nghệ vũ trụ, công nghệ sinh học, công nghệ la-ze, kiểm tra bằng siêu âm, quang học, quang điện tử, quang bán dẫn, vật liệu hấp thụ sóng, vật liệu na-nô, polimer, cao su tổng hợp… Đồng thời, nâng cao hiệu quả quản lý việc phân bổ và sử dụng các nguồn lực cho phát triển CNQP. Trong đó, phải đặc biệt quan tâm tới sự gắn kết chặt chẽ của quy trình: khoa học-công nghệ-sản xuất trong CNQP. Phát huy vai trò tiên phong của các cơ sở nghiên cứu trong việc dẫn hướng cho sự phát triển trình độ KH-CN của CNQP. Kết quả nghiên cứu của các viện phải sớm được ứng dụng và chuyển thành năng lực công nghệ của các nhà máy CNQP để hiện thực hoá thành các sản phẩm quân sự cuối cùng. Sớm thực hiện chuyển các viện nghiên cứu của CNQP sang hoạt động theo mô hình doanh nghiệp KH-CN, vừa nâng cao hiệu quả giữa nghiên cứu với sản xuất, vừa tạo ra sự tương đồng về cơ chế quản lý và “sân chơi” bình đẳng giữa các cơ sở nghiên cứu và cơ sở sản xuất để cùng chủ động thúc đẩy phát triển trình độ KH-CN của CNQP.
Bốn là, chú trọng xây dựng nguồn nhân lực, đặt con người ở vị trí trung tâm trong mọi giải pháp đầu tư phát triển CNQP. Đẩy mạnh công tác đào tạo nguồn nhân lực chuyên môn kỹ thuật, nghiệp vụ, nhất là đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ chuyên gia cao cấp, kỹ thuật viên lành nghề, có trình độ cao và phải đi trước một bước. Bên cạnh việc bảo đảm các yêu cầu an ninh, bảo mật đối với nhiệm vụ xây dựng và phát triển CNQP, cần mạnh dạn mở rộng thu hút nhiều lực lượng mới thuộc các ngành kinh tế dân sinh, chuyên gia quốc tế, các nhà khoa học là người Việt Nam ở nước ngoài tham gia làm việc trong các dự án phát triển CNQP. Nâng cao năng lực đào tạo chuyên gia về thiết kế- công nghệ chế tạo VKTBKT, đào tạo nhân viên, công nhân kỹ thuật cho CNQP, trên cơ sở kết hợp và đầu tư cho một số nhà trường nòng cốt ở trong và ngoài quân đội.
Phát triển trình độ KH-CN của CNQP là một trong những biện pháp quan trọng, góp phần thực hiện thắng lợi mục tiêu tổng quát về xây dựng và phát triển CNQP nước ta theo mục tiêu Nghị quyết 27/NQ-TW của Bộ Chính trị đã đề ra. Vì vậy, trong quá trình triển khai thực hiện phải có sự kết hợp đồng bộ với nhiều biện pháp khác, đặt nó trong tổng thể của hệ thống các giải pháp và phải tạo được những động lực mới với sự chủ động, tích cực tham gia của nhiều lực lượng có liên quan.
Đại tá, PGS, TS. Đoàn Hùng Minh
Cục trưởng Cục Tham mưu, Kế hoạch -
Tổng cục CNQP
Trao đổi ý kiến giữa Tạp chí quốc phòng toàn dân với bạn đọc, cộng tác viên Quân khu 5 12/12/2011
Nghệ thuật tổ chức, sử dụng lực lượng quân sự trong những ngày đầu kháng chiến toàn quốc 12/12/2011
“Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến” với việc xây dựng nền quốc phòng toàn dân trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc hiện nay 12/12/2011
Một số vấn đề về nghệ thuật chiến dịch phòng ngự trong chiến tranh bảo vệ Tổ quốc 12/12/2011
Hưng Yên không ngừng nâng cao hiệu quả công tác giáo dục quốc phòng 12/12/2011
Kết quả và kinh nghiệm tiến hành công tác phổ biến, giáo dục pháp luật của lực lượng vũ trang Quân khu 5 12/12/2011
Đoàn B.90 nâng cao chất lượng xây dựng lực lượng dự bị động viên - một số kinh nghiệm bước đầu 12/12/2011
Trường Quân sự Binh đoàn Cửu Long phấn đấu nâng cao chất lượng giáo dục, đào tạo và huấn luyện 11/12/2011
Kết hợp kinh tế với quốc phòng, tạo lập thế trận phòng thủ vững chắc trên địa bàn tỉnh ven biển Thái Bình 11/12/2011
Trung tâm Nhiệt đới Việt - Nga phát huy nội lực, mở rộng hợp tác, nâng cao hiệu quả hoạt động 11/12/2011