Thứ Tư, 07/05/2025, 10:55 (GMT+7)
Ấn phẩm tạp chí in
Một trong những điểm mới được thể hiện trong Dự thảo Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH (bổ sung, phát triển năm 2011) là khẳng định “Phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN”. Đó là kết quả của quá trình Đảng ta tổng kết thực tiễn, phát triển lý luận qua gần 25 năm thực hiện công cuộc đổi mới.
Sau khi trải qua những đổi mới cục bộ, từng phần, theo hướng từng bước xóa bỏ mô hình kinh tế kế hoạch hóa tập trung, bao cấp, tạo môi trường và điều kiện để mở rộng các quan hệ thị trường (như: “Khoán 100” trong nông nghiệp theo Chỉ thị 100-CT/TW ngày 13 tháng 1 năm 1981 của Ban Bí thư, “Ba phần kế hoạch” trong công nghiệp theo Quyết định 25/QĐ-CP ngày 21 tháng 1 năm 1981 của Hội đồng Chính phủ), Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ 6 của Đảng đã dứt khoát từ bỏ mô hình kinh tế phi hàng hóa, phi thị trường; chủ trương phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần có sự quản lý của nhà nước. Chủ trương đó đã đánh dấu bước ngoặt cơ bản trong tư duy và quan niệm của Đảng ta về con đường xây dựng CNXH ở nước ta. Tại Đại hội VII, Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH (Cương lĩnh 1991) của Đảng đã xác định: “Phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo định hướng XHCN, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước”1; xem đó là một trong bảy phương hướng cơ bản trong quá trình thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược: xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Cùng với thực tiễn của công cuộc đổi mới, nhận thức của Đảng ta về vấn đề này ngày càng rõ ràng và đầy đủ hơn. Tại Đại hội VIII, Đảng ta có quan niệm rất quan trọng, khi khẳng định: “Sản xuất hàng hóa không đối lập với CNXH, mà là thành tựu phát triển của nền văn minh nhân loại, tồn tại khách quan, cần thiết cho công cuộc xây dựng CNXH và cả khi CNXH đã được xây dựng”2. Đến Đại hội IX, khái niệm Kinh tế thị trường định hướng XHCN được chính thức đưa vào văn kiện của Đại hội; và Đảng ta coi “Đó là mô hình kinh tế tổng quát của nước ta trong thời kỳ quá độ đi lên CNXH”3.
Việc tổ chức thực hiện chủ trương đó qua gần 25 năm đổi mới đã đem lại những thành tựu to lớn, rất quan trọng và có ý nghĩa lịch sử. Diện mạo của nước ta đã có sự thay đổi cơ bản và toàn diện. Kinh tế tăng trưởng khá nhanh; đến nay, nước ta đã ra khỏi nhóm nước kém phát triển, với GDP bình quân 1.200 USD/ người; đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân được cải thiện rõ rệt. Hệ thống chính trị và khối đại đoàn kết toàn dân tộc được củng cố, tăng cường. Chính trị-xã hội ổn định, quốc phòng-an ninh được giữ vững; nước ta được xem là một trong những nơi an toàn nhất thế giới để thu hút các nhà đầu tư và khách du lịch nước ngoài. Việc gia nhập WTO đã đánh dấu sự hội nhập sâu, rộng của nền kinh tế nước ta vào nền kinh tế thị trường toàn cầu, khẳng định những thành tựu to lớn của công cuộc đổi mới, cũng như vị thế ngày càng tăng của nước ta trên trường quốc tế. Thực tiễn đó là cơ sở để Đảng ta tiếp tục khẳng định “Phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN” trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH (bổ sung, phát triển năm 2011), xem đó là một trong 8 phương hướng cơ bản nhằm xây dựng xã hội Việt Nam “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.
Tuy nhiên, việc thực hiện chủ trương phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN trong những năm qua không chỉ đem lại bức tranh toàn gam mầu tươi sáng; bên cạnh đó, cũng xuất hiện nhiều vấn đề phức tạp mới, đòi hỏi Đảng và Nhà nước ta phải tiếp tục tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận, tìm giải pháp để khắc phục những tác động mặt trái của kinh tế thị trường, hiện thực hóa từng bước những mục tiêu của CNXH. Đó chính là biện chứng của sự phát triển. Thế nhưng, ngay từ những năm đầu của công cuộc đổi mới, các thế lực thù địch cùng một số phần tử cơ hội, bất mãn, đã ra sức xuyên tạc đường lối đổi mới của Đảng ta. Chúng tung ra đủ thứ luận điệu: “kinh tế thị trường và định hướng XHCN là sự chắp vá”, là “ruột xanh, vỏ đỏ” và “việc chấp nhận phát triển kinh tế thị trường là sự từ bỏ, hay gác lại chủ nghĩa Mác - Lê-nin”, v,v. Nhân có một vài thời điểm, do những khó khăn khách quan và chủ quan, đặc biệt là tác động của cuộc khủng hoảng tài chính Đông-Nam-Á (năm 1997) và suy thoái kinh tế toàn cầu (năm 2008-2009), mà tốc độ tăng trưởng của nước ta có phần chậm lại, nguồn vốn đầu tư từ nước ngoài có giảm sút, họ la lối lên rằng “đổi mới đã hết hơi” và đổ tại vì “công thức định hướng XHCN”. Cố tình làm ngơ trước những thành tựu toàn diện, trên mọi phương diện, mà Đảng, Nhà nước và nhân dân ta đã nỗ lực phấn đấu, giành được qua những năm đổi mới, được quốc tế thừa nhận và ca ngợi, họ vẫn ráo riết thực hiện sự chống phá, đòi bỏ “định hướng XHCN”. Tất cả những luận điểm ấy đều dựa trên một tư tưởng cơ bản, mà họ thường dùng: “Kinh tế thị trường đi đôi với CNTB; còn CNXH gắn liền với kế hoạch hóa tập trung, bao cấp”. Từ đây, họ cho rằng: “chấp nhận phát triển kinh tế thị trường là quá độ đi sang CNTB”!
Trước những luận điệu đó, trong một bộ phận cán bộ, đảng viên và nhân dân, đã có những dao động nhất định về tư tưởng. Bởi lẽ, trong một thời gian dài áp dụng “mô hình xô-viết” về CNXH, một mô hình thích hợp với điều kiện đất nước có chiến tranh, cộng với tình thế bị chủ nghĩa đế quốc thực hiện chính sách bao vây, cấm vận, kinh tế-xã hội nước ta đã lâm vào tình trạng khủng hoảng nghiêm trọng; mô hình kế hoạch hóa tập trung, bao cấp đã cản trở sự phát triển của sức sản xuất trong điều kiện mới. Thêm nữa, sự xơ cứng trong tư duy của chúng ta (trong thời gian đó) về CNXH và con đường xây dựng CNXH, khi đem đối lập một cách máy móc CNTB với CNXH, xem những gì có trong CNTB thì không thể tồn tại trong CNXH; từ đó, cũng ngộ nhận rằng: kinh tế thị trường là của CNTB, còn kinh tế kế hoạch hóa là CNXH. Sự hạn chế đó đã được các thế lực thù địch lợi dụng triệt để nhằm xuyên tạc đường lối đổi mới của Đảng ta.
Thật ra, cả lý luận và thực tiễn phát triển kinh tế thị trường trên thế giới đều cho thấy: kinh tế thị trường không đồng nhất với CNTB. Kinh tế kế hoạch không phải là sản phẩm riêng có của CNXH, mà cũng tồn tại ngay trong CNTB, nhất là trong giai đoạn CNTB độc quyền nhà nước; bởi đó là sản phẩm của nền sản xuất xã hội hóa cao. Bản thân kinh tế thị trường là giai đoạn phát triển cao của kinh tế hàng hóa và nó đạt đến đỉnh cao ở CNTB. Sự ra đời và phát triển của kinh tế thị trường là kết quả phát triển tự nhiên của sức sản xuất theo quy luật “quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất”. Sự phát triển của sức sản xuất đạt đến một trình độ nhất định sẽ làm xuất hiện những điều kiện khách quan cho kinh tế thị trường tồn tại; đó là phân công lao động xã hội và những hình thức sở hữu khác nhau về tư liệu sản xuất. Những điều kiện ấy vẫn còn trong CNXH, nên việc phát triển kinh tế thị trường trong CNXH là lẽ tự nhiên, hợp quy luật. Do vậy, chủ trương phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN không phải là sự xa rời chủ nghĩa Mác - Lê-nin, mà ngược lại, thể hiện sự vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác -Lê-nin vào điều kiện cụ thể của nước ta: đi lên CNXH với điểm xuất phát thấp về trình độ phát triển kinh tế.
Xem xét toàn bộ lịch sử phát triển của xã hội loài người, thì phát triển kinh tế thị trường chính là giai đoạn phát triển tất yếu để chuyển nền sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn, từ sản xuất phân tán lên con đường xã hội hóa sản xuất trong thực tế. Sau những thử nghiệm đầu tiên việc xây dựng CNXH bằng con đường xã hội hóa trực tiếp, bản thân V.I. Lê-nin đã khẳng định, nước Nga xô-viết cần phải duy trì và phát triển kinh tế hàng hóa, lấy thương nghiệp làm “đòn xeo” để phát triển. Người đã đề ra “Chính sách kinh tế mới”, mà nội dung cơ bản của nó là duy trì và phát triển kinh tế hàng hóa dưới sự kiểm soát của Nhà nước vô sản. Việc thực hiện chính sách đó trong thực tiễn đã nhanh chóng đưa nước Nga ra khỏi tình trạng khủng hoảng kinh tế-xã hội trong những năm 20 của thế kỷ XX; đồng thời, khẳng định tính đúng đắn của việc thay đổi phương pháp tiếp cận CNXH. Khai thác những di sản đó của V.I. Lê-nin, Trung Quốc và Việt Nam đã căn cứ vào tình hình thực tế của nước mình, tiến hành “cải cách”, “đổi mới” (từ những năm cuối của thập kỷ 70, 80/ thế kỷ XX) theo hướng phát triển kinh tế thị trường. Kết quả của các chủ trương đó đang cho phép hiện thực hóa từng bước những mục tiêu của CNXH ở mỗi nước. Tất nhiên, quá trình phát triển kinh tế thị trường cũng làm nảy sinh những hiện tượng không phù hợp với bản chất của CNXH. Đó chính là những tác động mặt trái của nó. Cùng với sự hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN, hiệu quả quản lý của Nhà nước được tăng cường, những tác động mặt trái đó sẽ từng bước được chế ngự; môi trường thuận lợi cho những tác động tích cực tới công cuộc xây dựng CNXH sẽ ngày càng rộng mở.
Thực tiễn những lợi ích do phát triển kinh tế thị trường những năm qua là phù hợp với sự nghiệp xây dựng CNXH. Nó không đối lập với các nhiệm vụ kinh tế-xã hội của thời kỳ quá độ; mà ngược lại, còn thúc đẩy việc thực hiện các nhiệm vụ đó tốt hơn. Vì thế, phát triển kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay là bước đi đúng với yêu cầu về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Tuy nhiên, kinh tế thị trường mà chúng ta chủ trương phát triển không phải là nền kinh tế thị trường TBCN và cũng chưa phải là nền kinh tế thị trường XHCN, vì nước ta còn đang trong thời kỳ quá độ lên CNXH. Đó là nền kinh tế thị trường định hướng XHCN với những đặc trưng cơ bản sau đây:
Một là, xét về mục đích, phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN phải nhằm mục tiêu xây dựng xã hội “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”; tức là phải nhằm hiện thực hóa các mục tiêu của CNXH. Theo đó, Đảng và Nhà nước phải có nhiều giải pháp đồng bộ để khắc phục những khuyết tật của kinh tế thị trường và hạn chế những tác động tiêu cực do nó gây ra.
Hai là, xét về mặt quan hệ sản xuất, nền kinh tế thị trường mà chúng ta xây dựng có nhiều thành phần kinh tế dựa trên các hình thức sở hữu khác nhau về tư liệu sản xuất; trong đó, “Kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo. Kinh tế tập thể không ngừng được củng cố và mở rộng. Kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân”4. Đây là điểm khác biệt căn bản so với mô hình kinh tế thị trường TBCN. Điều đó đòi hỏi nhà nước phải có chính sách phù hợp để khuyến khích mọi thành phần kinh tế cùng phát triển lâu dài, hợp tác và cạnh tranh lành mạnh; đồng thời, cũng phải chăm lo phát huy vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước, tích cực xây dựng kinh tế tập thể.
Ba là, xét về cơ chế vận hành nền kinh tế, thì đó là nền kinh tế “vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản”5. Do vậy, đó không phải là nền kinh tế thị trường tự do. Cần thấy rằng, sự quản lý của nhà nước đối với nền kinh tế thị trường, nhằm khắc phục những khuyết tật của nó, là một xu thế khách quan của mọi nền kinh tế thị trường hiện nay trên thế giới. Cuộc suy thoái kinh tế toàn cầu vừa qua càng khẳng định nguyên lý đó. Thế nhưng, mục đích cuối cùng về mặt kinh tế-xã hội của sự quản lý nhà nước lại phụ thuộc vào bản chất giai cấp của nhà nước. Trong CNTB, sự quản lý của nhà nước tư sản có mục đích sâu xa là đảm bảo mở rộng sự bóc lột, thống trị kinh tế thế giới cho các công ty tư bản độc quyền xuyên quốc gia. Trái lại, với bản chất nhà nước của dân, do dân, vì dân, sự quản lý của Nhà nước ta trong phát triển kinh tế là nhằm cải thiện đời sống nhân dân, giữ vững độc lập dân tộc, xây dựng thành công CNXH. Tuy nhiên, sự quản lý đó phải bằng các biện pháp “tương hợp” với các quy luật của kinh tế thị trường. Bởi thế, nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta vừa vận động theo những quy luật của kinh tế thị trường, vừa chịu sự chi phối bởi các nguyên tắc phản ánh bản chất của CNXH (thể hiện qua các biện pháp can thiệp, quản lý của nhà nước XHCN). Điều đó đòi hỏi chúng ta phải hết sức chăm lo xây dựng bộ máy nhà nước pháp quyền trên cả hai mặt: thực sự trong sạch, vững mạnh, thực sự gần dân và vì dân; có năng lực quản lý vĩ mô ngày càng hoàn thiện. Vấn đề cấp bách hiện nay là phải nâng cao hiệu quả cuộc đấu tranh phòng chống tham nhũng, lãng phí; đẩy mạnh cải cách hành chính, tạo môi trường ổn định, thuận lợi cho sự phát triển kinh tế và tiến bộ xã hội.
Bốn là, tiến bộ và công bằng xã hội được chú ý giải quyết ngay trong từng bước và trong suốt quá trình phát triển của nền kinh tế. Trong nền kinh tế thị trường TBCN ngày nay, vấn đề công bằng xã hội cũng được đặt ra, nhưng chỉ được giải quyết trong khuôn khổ và giới hạn của CNTB và là phương tiện để duy trì, phát triển chế độ đó. Trái lại, trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, chúng ta sẽ giải quyết vấn đề này trong suốt quá trình phát triển. Với chúng ta, tiến bộ và công bằng xã hội không chỉ là phương tiện để đảm bảo sự tăng trưởng và phát triển kinh tế bền vững, mà còn là mục tiêu cần phải hiện thực hóa từng bước trong quá trình đi lên CNXH; cho nên, nó sẽ được thực hiện “ngay trong từng bước và trong từng chính sách”6. Theo đó, chúng ta không chờ đến khi kinh tế đạt tới trình độ phát triển cao rồi mới thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội; đồng thời, cũng không chạy theo tăng trưởng kinh tế đơn thuần để “hy sinh” tiến bộ và công bằng xã hội. Ngược lại, mỗi chính sách kinh tế đều phải hướng tới mục tiêu phát triển xã hội; mỗi chính sách xã hội cũng phải nhằm tạo ra động lực thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Tuy nhiên, vấn đề công bằng xã hội trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN không phải là sự lặp lại chủ nghĩa bình quân, chia đều cái nghèo cho mọi người dân; mà ngược lại, phải tạo cơ hội bình đẳng để mọi người dân phấn đấu đều trở nên khá giả. Do vậy, Đảng và Nhà nước ta chủ trương thực hiện nhiều chính sách nhằm “Tạo môi trường và điều kiện để mọi người lao động có việc làm và thu nhập tốt hơn. Khuyến khích làm giàu hợp pháp đi đôi với giảm nghèo bền vững. Có chính sách điều tiết hợp lý thu nhập trong xã hội. Hoàn thiện hệ thống an sinh xã hội”; “thực hiện chế độ phân phối chủ yếu theo kết quả lao động, hiệu quả kinh tế, đồng thời theo mức đóng góp vốn cùng các nguồn lực khác và phân phối thông qua hệ thống an sinh xã hội, phúc lợi xã hội”7. Trong thời gian tới, bên cạnh việc tiếp tục thực hiện các chương trình xóa đói giảm nghèo, Nhà nước cần có các chính sách quan tâm đặc biệt đến những gia đình thương binh, liệt sĩ, người có công với cách mạng, đồng bào dân tộc thiểu số, vùng sâu, vùng xa, những vùng bị thiên tai tàn phá..., để sớm thu hẹp sự phân cực giàu nghèo giữa các tầng lớp dân cư, cũng như giữa các vùng, miền trong phạm vi cả nước.
Các đặc trưng nói trên là một thể thống nhất. Có hiểu rõ và nắm vững thực chất những đặc trưng đó mới có thể đề ra và tổ chức thực hiện một cách đồng bộ, có hiệu quả các giải pháp đúng đắn về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội... trong quá trình phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN. Chỉ có như vậy, các mục tiêu của CNXH mới được hiện thực hóa trong cuộc sống. Thành công của mô hình CNXH đổi mới, chứa đựng trong đó sự phát triển kinh tế thị trường, chắc chắn sẽ là một đóng góp quan trọng vào phát triển học thuyết Mác-Lê-nin về CNXH nói chung, về con đường xây dựng CNXH ở những nước khởi đầu từ nền kinh tế chậm phát triển nói riêng. Đó sẽ là sự phủ định mạnh mẽ đối với những luận điệu xuyên tạc về sự không “dung hợp” giữa kinh tế thị trường và CNXH; đồng thời, củng cố niềm tin về sự phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN là một tất yếu ở nước ta. Niềm tin đó đã được những thành tựu của công cuộc đổi mới gần 25 năm qua khẳng định và cuộc sống hôm nay tiếp tục củng cố.
NGUYỄN NGỌC HỒI
___________
1- ĐCSVN- Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH. Nxb. ST, H. 1991, tr. 9-10.
2- ĐCSVN- Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII. Nxb. CTQG. H, 1996, tr. 97.
3- ĐCSVN- Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX. Nxb. CTQG. H, 2001, tr. 88.
4- ĐCSVN - Dự thảo các Văn kiện trình Đại hội XI của Đảng, Nxb. CTQG, H. 2010, tr. 8- 9.
5- Sđd, tr. 56.
6- Sđd, tr. 11.
7- Sđd, tr. 11, 9.
Trao đổi ý kiến giữa Tạp chí quốc phòng toàn dân với bạn đọc, cộng tác viên Quân khu 5 12/12/2011
Nghệ thuật tổ chức, sử dụng lực lượng quân sự trong những ngày đầu kháng chiến toàn quốc 12/12/2011
“Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến” với việc xây dựng nền quốc phòng toàn dân trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc hiện nay 12/12/2011
Một số vấn đề về nghệ thuật chiến dịch phòng ngự trong chiến tranh bảo vệ Tổ quốc 12/12/2011
Hưng Yên không ngừng nâng cao hiệu quả công tác giáo dục quốc phòng 12/12/2011
Kết quả và kinh nghiệm tiến hành công tác phổ biến, giáo dục pháp luật của lực lượng vũ trang Quân khu 5 12/12/2011
Đoàn B.90 nâng cao chất lượng xây dựng lực lượng dự bị động viên - một số kinh nghiệm bước đầu 12/12/2011
Trường Quân sự Binh đoàn Cửu Long phấn đấu nâng cao chất lượng giáo dục, đào tạo và huấn luyện 11/12/2011
Kết hợp kinh tế với quốc phòng, tạo lập thế trận phòng thủ vững chắc trên địa bàn tỉnh ven biển Thái Bình 11/12/2011
Trung tâm Nhiệt đới Việt - Nga phát huy nội lực, mở rộng hợp tác, nâng cao hiệu quả hoạt động 11/12/2011