QPTD -Chủ Nhật, 04/12/2011, 22:36 (GMT+7)
Phát huy truyền thống tốt đẹp 60 năm qua, tiếp tục phấn đấu xứng đáng là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất, cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân
Năm nay chúng ta kỷ niệm 60 năm ngày Tổng tuyển cử đầu tiên bầu Đại biểu Quốc hội khóa I (6-1-1946). Nhìn lại lịch sử ra đời và phát triển của Quốc hội nước ta, tuy không dài so với nhiều nước trên thế giới, nhưng có thể tự hào rằng từ sau ngày Tổng tuyển cử bầu Đại biểu Quốc hội khóa I đến nay, Quốc hội nước ta đã trở thành một thiết chế dân chủ đại diện cao nhất, ngày càng phát huy mạnh mẽ vai trò cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất, cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, với chức năng lập hiến, lập pháp; giám sát tối cao toàn bộ hoạt động của Nhà nước và quyết định những vấn đề trọng đại của đất nước.
Nhớ lại 60 năm về trước, trong thế nước "ngàn cân treo sợi tóc" chúng ta càng thấy sâu sắc vai trò của cơ quan đại diện dân cử cao nhất trong đời sống nhà nước và xã hội. Có thể nói chính quyền Nhà nước ta được xác lập ngay từ khi Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc Tuyên ngôn độc lập khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, ngày 2 - 9 - 1945. Tuy vậy, nhà nước đó xét về mặt pháp lý lẫn phương diện tổ chức bộ máy vẫn chưa phải là một nhà nước hoàn chỉnh. Trên thực tế, Nhà nước ta lúc đó mới chỉ có một bộ máy hành chính mang tính chất lâm thời. Để đảm bảo tính pháp lý và uy tín của Nhà nước trước toàn thể nhân dân và cộng đồng thế giới, mặc dù tình hình lúc đó cực kỳ khó khăn, phức tạp, nhưng Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ ra rằng: "Phải bầu ngay Quốc hội, càng sớm càng tốt. Bên trong thì nhân dân tin tưởng vào chế độ mình. Trước thế giới, Quốc hội do dân bầu ra sẽ có một giá trị pháp lý không ai có thể phủ nhận được"1. Thực hiện chủ trương đó, sau một thời gian chuẩn bị khẩn trương, cuộc tổng tuyển cử đầu tiên của nước ta bầu Quốc hội khóa I đã thành công rực rỡ. Quốc hội khóa I thay mặt nhân dân cả nước thông qua Hiến pháp năm 1946 - cơ sở pháp lý cao nhất đầu tiên - để củng cố chính quyền cách mạng non trẻ, khẳng định tính pháp lý của Nhà nước ta trước thế giới, đồng thời là một dấu mốc thể hiện sự hoàn chỉnh về cơ bản bộ máy Nhà nước ta, một thể chế dân chủ đại diện được nhân dân trực tiếp bầu ra.
Tiếp tục vai trò đó, ngay sau ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng (30/4/1975), trên cơ sở Nghị quyết của Hội nghị hiệp thương thống nhất Tổ quốc, cuộc tổng tuyển cử bầu Quốc hội thống nhất đã diễn ra sôi nổi trong cả nước vào ngày 15 tháng 4 năm 1976 và đã thành công rực rỡ. Quốc hội khóa VI ra đời trở thành nền tảng chính trị - pháp lý vững chắc cho sự hình thành và phát triển Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam thống nhất. Với quyền lực Nhà nước thuộc về nhân dân và chế độ bầu cử tự do, tiến bộ, Quốc hội đã thực sự thể hiện chân thực hình ảnh "nhân dân cả nước được thu nhỏ", hiện thân sức mạnh vô địch của khối đại đoàn kết toàn dân tộc trong một nhà nước thống nhất, cùng nhau phấn đấu khắc phục hậu quả của chiến tranh, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN.
Sáu mươi năm qua, với 11 khóa đại diện cho ý chí và nguyện vọng của nhân dân cả nước, Quốc hội nước ta đã xây dựng và thông qua 4 bản Hiến pháp. Hiến pháp năm 1946 - Hiến pháp đầu tiên của nhà nước kiểu mới; Hiến pháp năm 1959 - Hiến pháp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, đấu tranh thống nhất nước nhà; Hiến pháp 1980 - Hiến pháp của chế độ làm chủ tập thể, cả nước thống nhất cùng đi lên chủ nghĩa xã hội; Hiến pháp 1992 - Hiến pháp của thời kỳ đổi mới, đẩy mạnh công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, vì dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Tất cả các bản Hiến pháp đều là sản phẩm trí tuệ của toàn dân, thể hiện ý chí và nguyện vọng của đồng bào cả nước, quyết tâm tiến hành công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước trong từng thời kỳ. Các Hiến pháp trước, với nội dung thể hiện sâu sắc ý chí và nguyện vọng của nhân dân, vừa thấm đượm những giá trị vốn có của dân tộc ta, vừa tiếp thu có chọn lọc những tinh hoa của nhân loại. Trên cơ sở các Hiến pháp, Quốc hội các khóa đã lần lượt được nhân dân bầu ra, với tổ chức và hoạt động không ngừng được đổi mới, hiệu lực và hiệu quả hoạt động ngày càng nâng cao, được nhân dân quan tâm, đồng tình, ủng hộ.
Với chức năng hàng đầu là lập hiến và lập pháp, Quốc hội các khóa đã không ngừng chăm lo công tác xây dựng pháp luật. Mặc dầu đến nay, hệ thống pháp luật nước ta chưa hoàn chỉnh và đồng bộ, nhưng nhìn chung trên nhiều lĩnh vực của đời sống nhà nước và xã hội từ chính trị, kinh tế, xã hội, an ninh, quốc phòng, trật tự an toàn xã hội, ngoại giao, đến các lĩnh vực giáo dục, khoa học-công nghệ, giao lưu dân sự, hành chính, tư pháp... đã có luật hoặc bộ luật điều chỉnh. Nhiều bộ luật với trình độ pháp điển hóa cao lần lượt được ban hành như: Bộ luật Dân sự, Bộ luật Tố tụng dân sự, Bộ luật Hình sự, Bộ luật Tố tụng hình sự..., nhiều đạo luật mới lần đầu tiên ra đời ở nước ta như Luật Doanh nghiệp, Luật Đầu tư, Luật Phá sản, Luật Cạnh tranh, Luật Thương mại, Luật Sở hữu trí tuệ, Luật Các tổ chức tín dụng... Nhờ đó mà tạo lập được môi trường pháp lý bình đẳng, thuận lợi cho mọi thành phần kinh tế tồn tại và phát triển, các chủ trương phát huy nội lực, tăng nhanh vốn đầu tư trong nước và nhất là từ nước ngoài, tăng trưởng kinh tế cao và bền vững, nâng cao đời sống của nhân dân từng bước đi vào cuộc sống và trở thành hiện thực.
Cùng với hoạt động lập pháp, Quốc hội các khóa đã thực hiện ngày càng có hiệu lực và hiệu quả chức năng quyết định các vấn đề trọng đại của đất nước. Các nghị quyết của Quốc hội về nhiệm vụ phát triển kinh tế-xã hội 5 năm và hàng năm; về chính sách tài chính tiền tệ Quốc gia; về dự toán ngân sách nhà nước và phân bổ ngân sách nhà nước; về các công trình trọng điểm quốc gia; về tổ chức nhân sự của bộ máy nhà nước; về chính sách dân tộc; về an ninh, quốc phòng và đối ngoại... đã góp phần ổn định, phát triển đất nước. Các hoạt động giám sát tối cao của Quốc hội về đầu tư, về xây dựng cơ bản, về các dự án trọng điểm quốc gia, về giáo dục- đào tạo, về xuất khẩu lao động, về việc ban hành văn bản quy phạm pháp luật của Chính phủ, Tòa án nhân dân tối cao và Viện kiểm sát nhân dân tối cao... đã góp phần thúc đẩy việc thực hiện các nhiệm vụ kinh tế-xã hội đã đề ra, đấu tranh phòng chống các biểu hiện quan liêu, tham nhũng, lãng phí trong bộ máy nhà nước, tăng cường hiệu lực và hiệu quả quản lý nhà nước và góp phần từng bước hoàn chỉnh hệ thống pháp luật.
Thực tiễn 60 năm qua chỉ ra rằng, tăng cường vai trò của Quốc hội là cơ quan đại biểu cao nhất của cử tri và nhân dân cả nước trong việc thực hiện các chức năng lập hiến, lập pháp, quyết định những vấn đề trọng đại của đất nước; giám sát tối cao toàn bộ họat động của nhà nước-nhân tố cực kỳ quan trọng trong việc tập hợp, đoàn kết mọi lực lượng của toàn thể dân tộc, phát huy sức mạnh của nhân dân; xây dựng và củng cố nền tảng chính trị pháp lý của đất nước; phát huy dân chủ XHCN, đề cao pháp chế, xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân và vì dân. Ngược lại, hạ thấp vị trí và vai trò của Quốc hội chính là hạ thấp vai trò của nhân dân trong tổ chức và thực thi quyền lực nhà nước, làm cho bộ máy Nhà nước xa rời bản chất của dân, do dân và vì dân; hạ thấp việc xây dựng và củng cố nền tảng chính trị-pháp lý, làm suy yếu nền tảng pháp chế của quốc gia, hạ thấp dân chủ XHCN trong đời sống nhà nước và xã hội.
Mặc dầu 60 năm qua, vai trò của Quốc hội ngày càng được tăng cường, song trong điều kiện hiện nay, tổ chức và hoạt động của Quốc hội đang đứng trước những đòi hỏi khách quan, bức thiết sau đây:
Một là, phải nhanh chóng tăng cường năng lực lập pháp đáp ứng những đòi hỏi  bức xúc về nâng cao chất lượng và số lượng các dự án luật, bộ luật.
Phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN đang khẩn thiết đòi hỏi phải nhanh chóng đổi mới và hoàn thiện pháp luật, tháo gỡ mọi trở ngại về cơ chế, chính sách và thủ tục hành chính nhằm phát huy tối đa mọi nguồn lực, tạo sức bật mới cho sản xuất, kinh doanh thuộc mọi thành phần kinh tế với các hình thức sở hữu khác nhau. Điều đó đang đặt Quốc hội nói chung, đại biểu Quốc hội nói riêng trước đòi hỏi gay gắt phải nâng cao năng lực lập pháp để nhanh chóng xây dựng và hoàn thiện pháp luật về dân sự, kinh tế, tạo lập môi trường pháp lý thuận lợi cho nền kinh tế thị trường, định hướng XHCN phát triển.
Xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân và vì dân đang đòi hỏi phải đổi mới và hoàn thiện pháp luật về tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước, quy định trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức, cá nhân trong bộ máy nhà nước đối với công dân; thể chế và ghi nhận sự phát triển của nền dân chủ XHCN, đảm bảo cho tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân. Mức độ hoàn thiện pháp luật phù hợp với ý chí và nguyện vọng của nhân dân và tuân thủ pháp luật trở thành tiêu chí để đánh giá tính pháp quyền của một nhà nước. Điều đó đang đặt Quốc hội nói chung, các đại biểu Quốc hội nói riêng trước đòi hỏi phải đổi mới và hoàn thiện pháp luật về tổ chức bộ máy nhà nước, về quyền con người, quyền công dân và cơ chế để bảo vệ quyền con người, quyền công dân.
Xây dựng và phát triển các mối quan hệ quốc tế theo đường lối mở cửa, chủ động hội nhập kinh tế khu vực, quốc tế và từng bước mở rộng hợp tác trên các lĩnh vực khác đang đặt ra đòi hỏi khách quan phải xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật để tạo lập khung pháp lý cho mở cửa và hội nhập, tạo môi trường pháp lý cho sự hợp tác phát triển. Đồng thời, hệ thống pháp luật còn là phương tiện đầy hiệu lực để đấu tranh bảo vệ độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ trong điều kiện quốc tế đang tiếp tục có nhiều biến đổi phức tạp, toàn cầu hóa về kinh tế chứa đựng nhiều mâu thuẫn, vừa có mặt tích cực, vừa có mặt tiêu cực; đấu tranh dân tộc và đấu tranh giai cấp tiếp tục diễn ra gay gắt, các thế lực thù địch đang điên cuồng chống phá và xuyên tạc. Điều đó đang đặt Quốc hội nói chung, đại biểu Quốc hội nói riêng phải khẩn trương hoàn thiện pháp luật đáp ứng đòi hỏi hội nhập và mở cửa.
Hệ thống pháp luật nước ta hiện đang còn thiếu và chưa đồng bộ, thiếu cũng nhiều mà chưa đồng bộ cũng còn lớn. Trong bản thân hệ thống pháp luật còn bộc lộ những yếu kém. Còn một số lĩnh vực của đời sống xã hội vẫn chưa có luật điều chỉnh. Các luật đã ban hành còn chứa đựng nhiều “khung không nội dung điều chỉnh” thiếu độ minh bạch, thiếu ổn định, nhiều quy định không trực tiếp điều chỉnh được các quan hệ xã hội, phải chờ đợi văn bản hướng dẫn mới đi vào cuộc sống, nên kém hiệu lực, hiệu quả. Nội dung của một số văn bản quy phạm pháp luật chưa theo kịp với sự phát triển của thực tiễn, với tồn tại xã hội, còn mang nặng mong muốn chủ quan nên tính khả thi và dự báo thấp. Tình hình đó đặt Quốc hội và đại biểu Quốc hội trước hai nhiệm vụ rất nặng nề: một mặt, phải ban hành nhiều văn bản luật mới phục vụ cho phát triển kinh tế thị trường nhiều thành phần, định hướng XHCN, xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN, hội nhập kinh tế khu vực và quốc tế; mặt khác, phải sửa đổi, bổ sung những văn bản luật hiện hành nhằm khắc phục  những yếu kém vốn có trong bản thân hệ thống pháp luật.
Hai là, đời sống nhà nước và xã hội đang khẩn thiết đòi hỏi mọi công dân mà trước hết là cán bộ, đảng viên, công chức phải gương mẫu chấp hành pháp luật, phải xử lý nghiêm minh những hành vi vi phạm pháp luật, nhất là xử lý nghiêm minh trách nhiệm của người đứng đầu trực tiếp để xảy ra vi phạm pháp luật và tội phạm trong cơ quan, tổ chức của mình.
“Sống và làm việc theo Hiến pháp và pháp luật” là phương châm hành động của mọi người trong nhà nước pháp quyền XHCN. Luật pháp là tối thượng, luật pháp bất vị thân. Ai vi phạm, dù người đó ở bất kỳ cương vị nào cũng đều phải có hình thức xử lý nghiêm minh. Khi còn tình trạng nhẹ trên, nặng dưới, chín bỏ làm mười, dĩ hòa vi quý, dễ người dễ ta, nể nang, né tránh, thậm chí cơ hội... thì luật dù tốt đến mấy cũng chỉ là những điều luật khô khan, không hồn nằm trên giấy, lạc lõng trong cuộc sống, không có nghĩa lý gì cả. Tất cả điều đó, đang đặt hệ thống chính trị nước ta nói chung, Quốc hội nói riêng trước đòi hỏi phải khẩn trương nâng cao năng lực giám sát tối cao toàn bộ hoạt động của Nhà nước để đảm bảo cho Hiến pháp và pháp luật được nghiêm chỉnh chấp hành trong cuộc sống, tăng cường pháp chế XHCN, quản lý nhà nước bằng pháp luật, đấu tranh phòng, chống tham nhũng và thực hành tiết kiệm có hiệu quả.
Ba là, đề cao vai trò của Quốc hội trong việc quyết định các vấn đề trọng đại của đất nước đang là đòi hỏi của nền dân chủ đại diện, của việc xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN.
Tình trạng quyết định các vấn đề trọng đại của đất nước một cách hình thức, dựa dẫm, ỷ lại vào người khác, thiếu cơ sở thực tiễn và khoa học, không kịp thời,... đều trái với ý nguyện của nhân dân, không phù hợp với nền dân chủ XHCN. Điều đó đặt Quốc hội trước đòi hỏi phải nâng cao năng lực thực hiện chức năng quyết định những vấn đề trọng đại của đất nước một cách thực quyền, đúng đắn, kịp thời, phù hợp với ý chí và nguyện vọng của nhân dân.
Trước những đòi hỏi khách quan nói trên, trong thời gian tới chúng ta phải phấn đấu xây dựng một quốc hội thực thi đầy đủ nhiệm vụ, quyền hạn của mình theo Luật định, xứng đáng với vai trò là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất của Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam. Điều đó đòi hỏi Quốc hội phải mạnh về luật pháp, quyết định những vấn đề trọng đại của đất nước và giám sát tối cao.
Phương thức hoạt động của Quốc hội phải dựa trên hai trụ cột chính là ủy ban và Đại biểu Quốc hội. Vai trò của các ủy ban và Hội đồng Dân tộc phải được tăng cường. Coi trọng vai trò của các cá nhân đại biểu Quốc hội bằng cách phát huy trí tuệ chuyên sâu, chuyên trách và trách nhiệm của Đại biểu trước nhân dân. Đồng thời phải có sự đổi mới kỳ họp của Quốc hội để chuyển từ tham luận, phát biểu nêu vấn đề sang một Quốc hội tranh luận và quyết định chủ yếu theo hình thức luật tại các kỳ họp.
Để xây dựng Quốc hội theo định hướng tổng thể nói trên đáp ứng các đòi hỏi khách quan, bức xúc hiện nay, cần tiến hành đồng bộ các giải pháp say đây:
Tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng, đổi mới nhận thức về vị trí và vai trò của Quốc hội, tạo điều kiện để Quốc hội làm đúng, làm đủ nhiệm vụ, quyền hạn của mình theo Luật định nhằm xây dựng một Quốc hội mạnh, thực quyền.
Tiếp tục đổi mới tổ chức và hoạt động của Quốc hội theo hướng dân chủ hóa, tạo mọi điều kiện để các kỳ họp của Quốc hội diễn ra thực sự dân chủ; cải tiến các hình thức lấy ý kiến nhân dân đối với các dự án luật và các hình thức tiếp xúc giữa đại biểu Quốc hội với cử tri, tăng cường mối quan hệ gắn bó và trách nhiệm lẫn nhau giữa đại biểu Quốc hội và cử tri; sớm ban hành Luật Trưng cầu dân ý để nhân dân trực tiếp quyết định một số vấn đề hệ trọng và thiết thực.
Nâng cao năng lực lập pháp của đại biểu Quốc hội, phát huy vai trò của mình, đại biểu Quốc hội và các cơ quan của Quốc hội, phấn đấu thực hiện “quyền trình kiến nghị về luật, dự án luật ra trước Quốc hội” theo quy định của Hiến pháp. Để làm điều đó cần sửa đổi quy trình lập pháp, tạo cơ chế khuyến khích đại biểu Quốc hội thực hiện quyền sáng kiến lập pháp.
Khắc phục tình trạng giám sát theo bề rộng mà thiếu chiều sâu. Tập trung vào việc giám sát các văn bản quy phạm pháp luật của Chính phủ. Tòa án nhân dân tối cao và Viện kiểm sát nhân dân tối cao; giám sát ngân sách, đánh giá hiệu quả hoạt động của cơ quan, tổ chức trong việc sử dụng ngân sách Nhà nước, trong việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ, nhất là giám sát để làm rõ trách nhiệm chính trị và đạo đức của những người do Quốc hội bầu ra hoặc phê chuẩn. Cần xác định rõ phạm vi, nội dung, đối tượng giám sát trong từng thời kỳ theo hướng tập trung giám sát cơ quan hành pháp cao nhất, bao gồm Chính phủ, các bộ và các cơ quan ngang bộ.
Tăng cường hoạt động của Hội đồng Dân tộc và các ủy ban của Quốc hội. Các cơ quan này phải chịu trách nhiệm chính về những vấn đề trong các báo cáo của mình trình ra Quốc hội, đặc biệt là các báo cáo thẩm tra. Trọng tâm hoạt động của Quốc hội phải chuyển từ hoạt động của ủy ban Thường vụ Quốc hội và các Đoàn đại biểu Quốc hội sang hoạt động chủ yếu tại ủy ban, Hội đồng Dân tộc và quyết định tại kỳ họp toàn thể của Quốc hội,
Cần thành lập thêm một số ủy ban của Quốc hội để tạo điều kiện cho các ủy ban chuyên trách hóa hoạt động của mình theo hướng chuyên sâu về các lĩnh vực như tư pháp, tài chính, ngân sách... Cần tăng đại biểu Quốc hội chuyên trách theo hướng đảm bảo cho phần lớn các thành viên của Hội đồng Dân tộc và các ủy ban đều hoạt động chuyên trách.
Nâng cao chất lượng của đại biểu Quốc hội, hoàn thiện cơ chế lựa chọn và tiến hành bầu cử đại biểu Quốc hội theo hướng khắc phục tình trạng thiên về đại diện theo vùng, miền mà ít chú ý đến đại diện theo ngành, giới, nghề nghiệp. Các ứng cử viên phải có chương trình hoạt động cụ thể, có tính khả thi để trình bày, đối thoại với cử tri về những dự kiến của mình. Hằng năm, đại biểu Quốc hội phải báo cáo với cử tri về kết quả thực hiện các cam kết của mình để cử tri có cơ sở nhận xét, đánh giá hiệu quả hoạt động của đại biểu. Cùng với việc nâng cao kiến thức, đại biểu Quốc hội phải nâng cao bản lĩnh dám nói và dám đấu tranh với các biểu hiện vi phạm pháp luật, nhất là tham nhũng, lãng phí, tiêu cực trong bộ máy Nhà nước. Cần phát huy tính chủ động, tự lập, tự chịu trách nhiệm cá nhân của đại biểu Quốc hội. Đại biểu Quốc hội, đặc biệt là đại biểu Quốc hội chuyên trách ở Trung ương phải có chế độ làm việc định kỳ ở địa phương để kịp thời nắm bắt ý chí và nguyện vọng của nhân dân, phải thực sự là người đại diện cho cử tri đã bầu ra mình.
Kiện toàn các cơ quan tham mưu giúp việc cho Quốc hội trở thành một thiết chế mạnh, có tính ổn định. Cần thiết lập chức danh Tổng Thư ký Quốc hội (Văn phòng Quốc hội chuyên lo về cơ sở vật chất) để tập trung tham mưu giúp việc cho Quốc hội. Cần xây dựng cơ chế phối hợp giữa các bộ phận chuyên môn giúp việc Hội đồng Dân tộc, các ủy ban của Quốc hội với các đơn vị phục vụ chung cho Quốc hội như các bộ phận dịch vụ, nghiên cứu, thông tin, thư viện, tăng cường năng lực thông tin để kịp thời cung cấp thông tin khách quan, đầy đủ, đa chiều, chi tiết cho đại biểu Quốc hội, giúp đại biểu xem xét và quyết định các vấn đề trọng đại của đất nước một cách thực chất. Coi trọng việc trao đổi kinh nghiệm các kỹ năng hoạt động của các đại biểu Quốc hội, nhất là các kỹ  năng về chất vấn, kỹ năng khai thác, sử dụng và phân tích thông tin; nghiên cứu tiếp thu có chọn lọc những kinh nghiệm quý của một số nghị viện trên thế giới.
Nguyễn Văn An
Ủy viên Bộ Chính trị, Chủ tịch Quốc hội

 

1- Hồ Chí Minh, Tuyển tập, T.4,  tr. 356.
 

Ý kiến bạn đọc (0)