QPTD -Thứ Hai, 05/12/2011, 22:37 (GMT+7)
Phát huy thành tựu, tiếp tục đổi mới, nâng cao hiệu quả công tác đối ngoại quân sự trong tình hình mới

Trong thời kỳ đổi mới đất nước, quan hệ đối ngoại của nước ta được phát triển và mở rộng hơn bao giờ hết. Nắm vững và nhận định đúng xu hướng phát triển của tình hình thế giới, khu vực, Đảng ta đã kiên định “đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, mở rộng, đa phương hóa, đa dạng hóa các quan hệ quốc tế” theo phương châm thêm bạn, bớt thù, vừa hợp tác, vừa đấu tranh, nhằm giữ vững hòa bình, ổn định để phát triển kinh tế-xã hội, như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dạy “Chính sách ngoại giao của chính phủ thì chỉ có một điều là thân thiện với tất cả các nước dân chủ trên thế giới để giữ vững hòa bình”1.

Đường lối và phương châm đó cần có sự tham gia của nhiều ngành, đặc biệt là của đối ngoại, quốc phòng, an ninh. Kinh nghiệm hàng ngàn đời đấu tranh dựng nước và giữ nước của cha ông ta, những bài học quí báu trong hai cuộc kháng chiến trường kỳ chống thực dân, đế quốc xâm lược, nhất là bài học của 20 năm đổi mới do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo cho thấy: nếu không có sự bảo đảm về quốc phòng, an ninh thì không thể tạo dựng được phát triển kinh tế-xã hội bền vững, không thể phát huy được hiệu quả của hoạt động đối ngoại; nhưng đồng thời cũng cho thấy hoạt động đối ngoại đóng vai trò chủ động và hiệu quả trong việc tạo dựng và củng cố môi trường quốc tế có lợi cho xây dựng đất nước, tăng cường củng cố quốc phòng, đảm bảo an ninh quốc gia.
Trong việc triển khai thực hiện đa dạng hóa, đa phương hóa quan hệ quốc tế và chủ động hội nhập quốc tế dưới sự tác động của toàn cầu hóa kinh tế, những vấn đề mới đặt ra đối với quốc phòng, an ninh và đối ngoại ngày càng đa dạng hơn và phức tạp hơn, do vậy cần được lưu ý thỏa đáng và xử lý đúng đắn. Nguyên tắc trong chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nước ta là tôn trọng độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, bình đẳng và cùng có lợi, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, không dùng vũ lực và đe dọa dùng vũ lực trong quan hệ quốc tế, giải quyết các bất đồng và tranh chấp bằng thương lượng hòa bình, chống mọi âm mưu và hành động gây sức ép, áp đặt cường quyền.
           
 Quán triệt sâu sắc nguyên tắc, quan điểm, đường lối đối ngoại của Đảng, những năm qua công tác đối ngoại quân sự đã chủ động, nhạy bén trong xác định nội dung, phương thức, đối tác, nhờ đó đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng. Quan hệ hữu nghị và hợp tác về quân sự ngày càng mở rộng trên nhiều mặt: hợp tác giữ vững an ninh khu vực và hòa bình thế giới; nghiên cứu phát triển khoa học quân sự, quốc phòng, phát triển vũ khí-kỹ thuật; đào tạo, huấn luyện cán bộ, nhân viên kỹ thuật, trao đổi công nghệ quân sự hiện đại... Đặc biệt, vừa qua chúng ta đã công bố sách trắng “Quốc phòng Việt Nam đầu thế kỷ XXI”, trình bày quan điểm, đường lối, chính sách quốc phòng phù hợp với chính sách đối ngoại mở rộng của Nhà nước. Việt Nam công khai chủ trương không tham gia bất kỳ liên minh quân sự nào; không cho nước nào đặt căn cứ quân sự tại Việt Nam; không tham gia bất kỳ hoạt động quân sự nào, sử dụng vũ lực hay đe dọa sử dụng vũ lực đối với các nước khác, nhưng sẵn sàng tự vệ chống mọi hành động xâm phạm lãnh thổ trên bộ, vùng trời, vùng biển và lợi ích quốc gia của Việt Nam; không chạy đua vũ trang, nhưng luôn củng cố sức mạnh quốc phòng đủ khả năng để tự vệ, đánh bại mọi kẻ thù xâm lược dưới mọi hình thức. Mở rộng quan hệ đối ngoại với các nước trên thế giới, nhất là các nước láng giềng và các nước trong khu vực, trên cơ sở tôn trọng độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của nhau, giữ vững hòa bình, ổn định, góp phần tin cậy và hiểu biết lẫn nhau. Đối ngoại quân sự đã tích cực phối hợp giải quyết những vấn đề tồn tại về biên giới, lãnh thổ, phân định ranh giới, vùng chồng lấn, đấu tranh với các hiện tượng xâm phạm chủ quyền biên giới, biển, đảo,... Trước âm mưu mới của các thế lực thù địch, hoạt động đối ngoại quân sự còn kiên quyết đấu tranh trên mặt trận ngoại giao chống chiến lược “diễn biến hòa bình”, bạo loạn lật đổ và các hoạt động lợi dụng dân chủ, nhân quyền, tự do tôn giáo để can thiệp vào công việc nội bộ của nước ta. Quá trình hoạt động, đã phối hợp chặt chẽ với hoạt động đối ngoại của Đảng, ngoại giao của Nhà nước, tạo thành sức mạnh tổng hợp của các lực lượng tham gia đối ngoại. Trên cơ sở đó, mở rộng quan hệ ở tất cả các châu lục, hình thành thế trận đối ngoại quân sự mới, góp phần duy trì môi trường hòa bình, ổn định, tạo thuận lợi cho công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Trong đó, đặc biệt coi trọng xây dựng, phát triển mối quan hệ hữu nghị, tin cậy và hiểu biết lẫn nhau với quân đội các nước láng giềng và các nước trong khu vực. Đồng thời, mở rộng khuôn khổ hợp tác và làm sâu sắc thêm quan hệ hữu nghị với tất cả các đối tác; tăng cường hợp tác song phương, từng bước tham gia các hoạt động đa phương, góp phần giải quyết các vấn đề bức xúc của khu vực và thế giới, qua đó nâng cao uy tín và vị thế của Quân đội nhân dân Việt Nam. Mặt khác, công tác đối ngoại quân sự còn chủ động thiết lập cơ chế đối thoại, tích cực giao lưu, trao đổi kinh nghiệm, học thuật, hợp tác đào tạo, phục vụ trực tiếp nhiệm vụ xây dựng quân đội “cách mạng, chính qui, tinh nhuệ, từng bước hiện đại”, góp phần tăng cường sức mạnh quốc phòng - an ninh của đất nước.
Những thành tựu mà công tác đối ngoại quân sự đạt được là hết sức quan trọng, nhất là trong bối cảnh khó khăn, thách thức và thuận lợi đan xen. Tuy nhiên, trước yêu cầu mới, công tác đối ngoại quân sự cũng còn những hạn chế, bất cập, như công tác tham mưu, dự báo có lúc chưa theo kịp diễn biến tình hình, chậm xác định khuôn khổ quan hệ tổng thể, có lúc còn chạy theo vụ việc, dẫn đến lúng túng, bị động trong xử lý quan hệ. Thực tiễn còn cho thấy, trình độ của một số cán bộ làm công tác đối ngoại quân sự chưa đáp ứng yêu cầu phát triển của thời kỳ mới.
Trong giai đoạn tới, tình hình thế giới, khu vực tiếp tục diễn biến phức tạp, như Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng đã chỉ ra: “Trong vài thập kỷ tới, ít có khả năng xảy ra chiến tranh thế giới. Nhưng chiến tranh cục bộ, xung đột vũ trang, xung đột dân tộc, tôn giáo, chạy đua vũ trang, hoạt động can thiệp, lật đổ, khủng bố còn xảy ra ở nhiều nơi với tính chất phức tạp ngày càng tăng... hòa bình, hợp tác, phát triển vẫn là xu thế lớn”. Chiến lược “diễn biến hòa bình” được chủ nghĩa đế quốc đẩy mạnh bằng những phương thức mới, thích ứng với tình hình, không chỉ đối với các nước xã hội chủ nghĩa (XHCN) mà cả các nước tiến bộ khác. Điển hình là sự xuất hiện của các cuộc “cách mạng màu sắc”, xuất phát từ các nước trong khối SNG đang có chiều hướng lan rộng. Những gì diễn ra trên thế giới trong thời gian vừa qua cũng khẳng định cuộc đấu tranh về ý thức hệ vẫn hết sức căng thẳng mà không hề mất đi. Chúng ta phản đối việc vừa qua Hội đồng Nghị viện thuộc Hội đồng Châu Âu (PACE) đã làm một việc sai trái và lố bịch là ra Nghị quyết số 1481 để lên án các nước XHCN Đông Âu trước đây, mà hiện nay họ gán ghép cho cái tên là “chế độ cộng sản toàn trị”. Việc làm này không chỉ đơn giản ở chỗ thể hiện một cái nhìn sai lệch của một số thế lực thù địch CNXH đối với thực tiễn quá trình phát triển của xã hội loài người, mà sâu xa, nghiêm trọng hơn là họ đã vi phạm thô bạo quyền tự tôn dân tộc của các quốc gia có chủ quyền. Họ cố tình thay đổi lịch sử, xuyên tạc, bóp méo sự thật nhằm mục tiêu cuối cùng là xóa bỏ các nước XHCN còn lại và lực lượng chính trị tiến bộ trên thế giới. Mặt khác, mối đe dọa từ các yếu tố an ninh phi truyền thống như thảm họa thiên tai, dịch bệnh, khoảng cách ngày càng lớn giữa các nước giàu và nghèo, bảo vệ môi trường sinh thái... cũng là những nhân tố tác động tiêu cực đến quốc phòng-an ninh của mỗi quốc gia, gây bức xúc, đòi hỏi sự phối hợp giải quyết có tính toàn cầu.
Nằm ở Đông Nam châu á, một khu vực địa-chính trị, quân sự và kinh tế phát triển năng động, nước ta có điều kiện hợp tác, phát triển, nhưng đồng thời cũng phải đối phó với nhiều vấn đề phức tạp như tranh chấp lãnh thổ, biển đảo, tài nguyên, tranh giành ảnh hưởng của các nước lớn... Thực tiễn cho thấy tình hình khu vực luôn tiềm ẩn những nhân tố khó lường đối với môi trường hòa bình, ổn định. Cùng với đó, các thế lực thù địch tăng cường chống phá nước ta bằng chiến lược “diễn biến hòa bình”, bạo loạn lật đổ, nhằm xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản và chế độ XHCN ở Việt Nam.
Những đặc điểm và xu thế đó vừa tạo cơ hội cho đất nước ta duy trì hòa bình, mở rộng hợp tác phát triển, vừa là những khó khăn, thách thức mới, đặt ra những yêu cầu mới trong nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc, đòi hỏi chúng ta phải kết hợp chặt chẽ hơn nữa giữa quốc phòng, an ninh và đối ngoại. Phát huy nội lực, tăng cường sức mạnh tổng hợp của khối đại đoàn kết toàn dân tộc, của cả hệ thống chính trị, tranh thủ được sức mạnh của thời đại với sức mạnh của dân tộc, phát huy sức mạnh của lực lượng và thế trận quốc phòng, an ninh, đối ngoại cho sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc. Sức mạnh của thời đại trong thời kỳ mới là xu thế độc lập dân tộc, hòa bình, hợp tác, phát triển và giữ vững bản sắc dân tộc trong quá trình phát triển đất nước và hội nhập quốc tế. Mục đích của chính sách đối ngoại và chính sách quốc phòng, an ninh của Đảng và Nhà nước ta phù hợp với xu thế đó. Sự phù hợp đó là nền tảng và tiền đề không thể thiếu được để đối ngoại và quốc phòng, an ninh cùng góp phần tranh thủ sức mạnh thời đại với sức mạnh dân tộc, phục vụ đắc lực cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Phải thấy rõ nhiệm vụ quan trọng nhất của hoạt động đối ngoại quân sự là góp phần bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của đất nước, giữ vững hòa bình và tạo điều kiện quốc tế thuận lợi để phát triển kinh tế-xã hội, thực hiện thành công sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Trong xu thế toàn cầu hóa đòi hỏi công tác đối ngoại quân sự phải dựa trên cơ sở đường lối đối ngoại và ngoại giao của Đảng, Nhà nước tạo dựng và tham gia vào những hình thức tập hợp lực lượng quốc tế có lợi cho mình. Chúng ta không tham gia liên minh quân sự với bất cứ nước nào và cũng không lấy quan hệ với nước này để chống nước khác-đây là vấn đề nguyên tắc. Nhưng chúng ta cần tham gia vào xu hướng chung của thời đại, cũng là tham gia vào những hình thức hội nhập, hợp tác quốc tế có lợi cho đất nước ta là tận dụng sự tùy thuộc lẫn nhau, sự ràng buộc về lợi ích chung giữa các quốc gia để góp phần bảo đảm an ninh quốc gia, chủ quyền lãnh thổ, đồng thời tranh thủ được nguồn lực từ bên ngoài cho phát triển và bảo vệ Tổ quốc XHCN. Bản chất của vấn đề này là nhận thức đúng đắn về thời cơ, nguy cơ và thách thức, về xu thế phát triển của thời đại, chiều hướng diễn biến của thời cuộc, về đối tượng và đối tác... để tăng cường mở rộng quan hệ quốc tế, nâng cao vị thế, uy tín của đất nước trên trường quốc tế, phục vụ đắc lực cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước. Do đó, cần kết hợp chặt chẽ giữa vận dụng tư tưởng, nghệ thuật ngoại giao truyền thống của dân tộc, mang bản sắc Việt Nam với những nguyên tắc, điều kiện mới của nền ngoại giao hiện đại, trên cơ sở thế và lực mới của đất nước. Kết hợp chặt chẽ giữa đối ngoại quân sự với đối ngoại của Đảng, ngoại giao của Nhà nước, ngoại giao nhân dân, tạo thành sức mạnh tổng hợp của các lực lượng tham gia đối ngoại dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo tập trung thống nhất của Đảng và Nhà nước. Mặt khác, bằng hoạt động đặc thù của mình, công tác đối ngoại quân sự phải khôn khéo, linh hoạt nhằm tận dụng thành tựu của cuộc cách mạng khoa học-công nghệ đang phát triển mạnh mẽ trên thế giới để hiện đại hóa nền quốc phòng, quân sự của đất nước, đẩy mạnh xây dựng quân đội “cách mạng, chính qui, tinh nhuệ, từng bước hiện đại”.
Trước những diễn biến phức tạp của tình hình thế giới, công tác đối ngoại quân sự phải tiếp tục thực hiện có hiệu quả đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, đa phương hóa, đa dạng hóa của Đảng. Đồng thời, tích cực đổi mới hình thức, phương pháp, theo tinh thần kiên định những vấn đề chiến lược nhưng linh hoạt, khéo léo, mềm dẻo về sách lược “dĩ bất biến, ứng vạn biến”; chú trọng phát huy các điểm đồng thuận, thu hẹp các điểm bất đồng, “thêm bạn, bớt thù”, đúng với chủ trương “Việt Nam sẵn sàng là bạn, là đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế, phấn đấu vì hòa bình, độc lập và phát triển, trên cơ sở tôn trọng lẫn nhau, bình đẳng cùng có lợi”. Phải thấy rõ, công tác đối ngoại là nhằm phục vụ chính sách đối nội; mục tiêu nhất quán của công tác đối ngoại trong thời kỳ đổi mới là tạo dựng môi trường quốc tế thuận lợi cho công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Mục tiêu cụ thể của công tác đối ngoại quân sự là tranh thủ nguồn lực từ bên ngoài để tăng cường sức mạnh quốc phòng, quân sự, giữ vững hòa bình, ổn định của đất nước; đồng thời góp phần tích cực vào sự nghiệp đấu tranh chính nghĩa của nhân dân các dân tộc trên thế giới vì hòa bình, độc lập dân tộc và tiến bộ xã hội, như đấu tranh chống chạy đua vũ trang, lên án các cuộc chiến tranh xâm lược, hoạt động khủng bố...
Chúng ta đang nỗ lực để gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) và tham gia hội nhập với nền kinh tế thế giới ngày càng sâu sắc và toàn diện hơn. Theo đó, công tác đối ngoại quân sự cũng chịu sự ảnh hưởng, tác động nhiều chiều. Vì vậy, ngành Đối ngoại Quân sự phải có sự đổi mới sâu sắc cả trong nhận thức và trong tổ chức thực hiện. Trước hết, phải tập trung nâng cao chất lượng, hiệu quả quản lý, điều hành theo hướng tập trung, thống nhất; rà soát, bổ sung, sửa đổi các qui chế, qui định, chế độ đã ban hành, bảo đảm đúng đường lối, đúng nguyên tắc, thông thoáng nhưng chặt chẽ về thủ tục, phù hợp với sự phát triển của tình hình. Đổi mới mạnh mẽ công tác nghiên cứu, dự báo chiến lược, phát huy chức năng tham mưu, đề xuất kịp thời các phương án xử lý các vấn đề, không để bị động, lúng túng về chiến lược. Ngoài ra, phải đổi mới và đẩy mạnh công tác thông tin tuyên truyền đối ngoại về đất nước, con người Việt Nam, truyền thống vẻ vang của dân tộc, của quân đội anh hùng... Chủ động, kiên quyết đấu tranh trên các phương tiện thông tin đại chúng và trong các hoạt động đối ngoại, chống lại các luận điệu phản động, làm thất bại các âm mưu, thủ đoạn chống phá của các thế lực phản động, thù địch. Tranh thủ sự hợp tác, phát triển để ngăn chặn những mưu đồ phá hoại hòa bình, gây mất ổn định trên đất nước chúng ta ngay từ bên ngoài lãnh thổ.
Để đáp ứng yêu cầu đó, một nhiệm vụ hết sức quan trọng, thường xuyên là xây dựng ngành Đối ngoại Quân sự vững mạnh ngang tầm đòi hỏi. Trên cơ sở qui định, tiếp tục kiện toàn tổ chức, biên chế, đẩy mạnh hiện đại hóa trang bị, vật chất bảo đảm cho nhiệm vụ; coi trọng công tác tổng kết rút kinh nghiệm, từ đó đúc kết thành lý luận, bài học kinh nghiệm trong công tác đối ngoại quân sự. Tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ làm công tác đối ngoại quân sự. Tập trung xây dựng bản lĩnh chính trị vững vàng, tuyệt đối trung thành với Tổ quốc, với chế độ, có đạo đức trong sáng, nếp sống lành mạnh, đồng thời, có trình độ chuyên môn cao, giỏi ngoại ngữ, luật pháp quốc tế; bảo đảm cán bộ làm công tác đối ngoại quân sự vừa là một quân nhân ưu tú, mẫu mực, vừa là nhà ngoại giao vững vàng, tinh thông.
 
Thượng tướng,TS. Nguyễn Huy Hiệu
Ủy viên BCHTƯ Đảng
Thứ trưởng Bộ Quốc phòng
 
1- Hồ Chí Minh - Toàn tập.T5, Nxb CTQG, H. 2000, tr.30.
 

Ý kiến bạn đọc (0)