QPTD -Thứ Ba, 26/07/2011, 16:16 (GMT+7)
Những cơ sở pháp lý để xây dựng biên giới đất liền Việt – Trung hòa bình, hữu nghị, ổn định và phát triển

Ngày 18-1-1950, nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa (nay là nước Cộng hòa XHCN Việt Nam) và nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa thiết lập quan hệ ngoại giao. Kể từ đó, quan hệ hữu nghị giữa hai nước không ngừng được phát triển. Việc hai nước hoàn thành phân giới cắm mốc (31-12-2008) và ký các văn kiện pháp lý (19-11-2009) nhằm xây dựng biên giới trên đất liền trở thành một biên giới hòa bình, hữu nghị, ổn định và phát triển, là sự kiện lịch sử quan trọng, đánh dấu bước phát triển mới của mối quan hệ đối tác chiến lược toàn diện giữa hai nước.

Ngày 19-11-2009, Việt Nam và Trung Quốc đã ký 3 văn kiện pháp lý: Nghị định thư về Phân giới cắm mốc; Hiệp định về Quy chế quản lý biên giới; Hiệp định về Cửa khẩu và quy chế quản lý cửa khẩu trên biên giới đất liền Việt Nam – Trung Quốc. Đây là hoạt động có ý nghĩa cực kỳ quan trọng, một biểu hiện sinh động về nỗ lực chung của hai nước nhằm hoàn tất việc phân định biên giới trên đất liền Việt Nam – Trung Quốc sau Tuyên bố chung của Chính phủ Việt Nam và Chính phủ Trung Quốc ngày 31-12-2008. Theo thỏa thuận đã ký, các văn kiện trên sẽ có hiệu lực sau khi hai bên thông báo cho nhau bằng văn bản qua đường ngoại giao về việc đã hoàn thành các thủ tục pháp lý trong nước; ngày văn bản thông báo cuối cùng được gửi đi sẽ là ngày bắt đầu tính có hiệu lực và Nghị định thư về Phân giới cắm mốc, bản đồ và các phụ lục đính kèm sẽ được đăng ký và nộp lưu chiểu lên Liên hợp quốc.

Trở lại lịch sử, từ thế kỷ X, đường biên giới Việt – Trung là đường biên giới vùng, mang tính tập quán, chưa được xác định bằng các văn bản pháp lý quốc tế. Đến cuối thế kỷ XIX, cụ thể là năm 1887, thực dân Pháp (khi đó đang áp đặt chế độ thuộc địa trên đất nước ta) và triều đình nhà Thanh, Trung Quốc đã ký Công ước Hoạch định biên giới giữa Bắc Kỳ với Trung Quốc và năm 1895 hai bên tiếp tục ký Công ước bổ sung Công ước hoạch định biên giới. Thực hiện hai Công ước trên, hai bên đã xác định biên giới và đánh dấu bằng 314 cột mốc, ghi nhận trên bản đồ tỷ lệ 1/100.000. Tuy nhiên, nhiều khu vực vẫn còn để trắng, chưa cắm mốc, chưa được giải quyết triệt để, như khu vực Thác Bản Giốc và khu vực Cửa sông Bắc Luân. Mặt khác, do phương tiện kỹ thuật còn kém hiện đại, nên việc phân giới, cắm mốc không được xác định bằng lưới tọa độ; các cột mốc chưa đảm bảo tính kiên cố, bố trí lại thưa và thiếu sự mô tả chính xác. Đặc biệt, nhiều đoạn biên giới không được nói đến trong hai Công ước và không có bản đồ đính kèm. Những đặc điểm đó, cùng với những yếu tố về môi trường và các biến cố lịch sử trải qua hơn một trăm năm, đã làm cho nhiều cột mốc bị hư hỏng, thậm chí bị mất hoặc bị xê dịch so với vị trí đã vẽ trên bản đồ. Đó chính là các yếu tố khiến hai bên có nhận thức không thống nhất về đường biên giới ở một số khu vực, làm cho công tác quản lý, bảo vệ biên giới gặp rất nhiều khó khăn.

Ngược lại, đường biên giới được hai nước tiến hành phân giới cắm mốc trong thời gian qua đã và đang được hoàn tất theo tinh thần của 3 văn kiện vừa ký, là một đường biên giới khắc phục được tất cả các tồn tại nói trên. Đó là đường biên giới hoàn chỉnh từ Đông sang Tây, được đánh dấu bằng các cột mốc hiện đại, được xác định vị trí bằng hệ thống định vị toàn cầu, hệ thống thông tin địa lý, giao cảm và được ghi nhận bằng bản đồ với sự mô tả chi tiết hướng đi. Nói cách khác, giờ đây, ước mơ nghìn đời của các thế hệ hai nước Việt Nam và Trung Quốc về một đường biên giới rõ ràng, minh định đã trở thành hiện thực. Để có được thành quả đó là nỗ lực không biết mệt mỏi của hai Đảng, hai Chính phủ và nhân dân hai nước Việt Nam và Trung Quốc trong hơn một nửa thế kỷ qua. Thật vậy, cách đây tròn 52 năm, ngày 2-11-1957, Ban Bí thư Trung ương Đảng Lao động Việt Nam (nay là Đảng Cộng sản Việt Nam) đã gửi thư cho Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc đề nghị hai bên giải quyết vấn đề biên giới trên cơ sở tôn trọng Đường biên giới lịch sử do hai Công ước Pháp – Thanh năm 1887 và năm 1895 để lại và mọi tranh chấp có thể tiến hành bằng đàm phán. Bốn tháng sau đó, tháng 4-1958, Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc trả lời đồng ý. Tuy vậy, do nhiều yếu tố, cả khách quan lẫn chủ quan, nên từ năm 1974 trở lại đây, hai nước mới tiếp tục đàm phán về vấn đề biên giới trên đất liền giữa hai nước. Từ năm 1974 đến năm 2009, hai bên đã tiến hành 4 đợt đàm phán lớn, trong đó có đợt đàm phán kéo dài tới 18 năm (1991 – 2009). Đợt đàm phán có thời gian kỷ lục này cũng là đợt đàm phán cuối cùng, thể hiện sự nỗ lực liên tục của cả hai bên, cả trên bàn đàm phán và ngoài thực địa để đi đến việc hoạch định và phân giới cắm mốc biên giới Việt Nam – Trung Quốc. Cụ thể là, giai đoạn 1991 – 1999: đám phán và ký Hiệp ước biên giới trên đất liền; giai đoạn 2000 – 2008: đàm phán và tiến hành phân giới cắm mốc trên thực địa; giai đoạn 2008 – 2009: đàm phán, xây dựng Nghị định thư về Phân giới cắm mốc. Đến nay, toàn bộ đường biên giới dài 1449,566 km (trong đó đường biên giới trên đất liền là 1065,652 km, đường biên giới nước là 383,914 km) đã được đánh dấu bằng 1971 cột mốc cho 1378 vị trí mốc chính và 402 vị trí mốc phụ (một vị trí trên thực địa có thể được đánh dấu bằng 1, hoặc 2, hoặc 3 mốc tùy theo quy định và thực địa). Mốc số 0 nằm ở giao điểm đường biên giới giữa 3 nước Việt Nam – Lào – Trung Quốc, là mốc lớn, được làm bằng đá hoa cương với ba mặt gắn quốc huy của 3 nước, được đặt trên đỉnh núi Khoan La San (Shi Ceng Da Shan), có độ cao là 1866,23 m so với mực nước biển, có tọa độ địa lý 22o 24’ 02,295” vĩ độ Bắc, 10208’ 38,109” kinh độ Đông, theo Hiệp định về ngã ba biên giới được ký giữa 3 nước năm 2007. Mốc cuối cùng (mốc 1378) là mốc đơn, loại trung, làm bằng đá hoa cương, đặt trên phía Đông-Nam bãi Giậu Gót (Heng Shi Sha Zhou), có độ cao là -1,01 m so với mực nước biển, có tọa độ địa lý 21o30’ 15,244” vĩ độ Bắc, 108o 04’ 08,974” kinh độ Đông. Mốc này được thiết kế đặt trên đế mốc bằng bê-tông hình tròn, cao gần 10 m để khi thủy triều lên (4 đến 5 m) vẫn đảm bảo cho mốc nổi trên mặt nước. Từ mốc cuối cùng, biên giới theo trung tuyến sông kéo đến giới điểm 62 và cũng là điểm bắt đầu của biên giới trên biển giữa Việt Nam và Trung Quốc trong Vịnh Bắc Bộ.

Cùng với những công việc trên, việc mô tả chi tiết hướng đi của đường biên giới được ghi ở Phần II của Nghị định thư về Phân giới cắm mốc, đồng thời đường biên giới được thể hiện trên “Bản đồ biên giới trên đất liền giữa nước Cộng hòa Xã  hội chủ nghĩa Việt Nam và nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa”, tỷ lệ 1/50.000. Nghị định thư về Phân giới cắm mốc cũng lần đầu tiên quy định rõ ràng các cồn bãi trên sông suối quy thuộc giữa hai nước phù hợp với luật pháp quốc tế. Sau khi Nghị định thư này có hiệu lực, bất kỳ sự thay đổi của địa hình, sông suối trên thực địa đều không làm thay đổi vị trí của đường biên giới đã phân giới, trừ phi hai bên có thỏa thuận khác. Đường biên giới sẽ được tiến hành kiểm tra liên hợp 10 năm một lần để bảo dưỡng, duy trì và sửa chữa mốc giới. Hai khu vực Thác Bản Giốc và Cửa sông Bắc Luân sẽ có quy chế pháp lý đặc thù. Để tạo sự thuận lợi cho tàu thuyền hai bên qua lại khu vực Cửa sông Bắc Luân và hợp tác khai thác tiềm năng du lịch tại khu vực Thác Bản Giốc, hai bên sẽ tiến hành đàm phán và ký kết Hiệp định về Quy chế tự do đi lại của tàu thuyền ở khu vực Cửa sông Bắc Luân và Hiệp định hợp tác khai thác tiềm năng du lịch Thác Bản Giốc trong năm 2010.

Nghị định thư và các văn kiện đính kèm gồm bộ bản đồ địa hình khu vực biên giới Việt – Trung, có thể hiện đường biên giới và vị trí các mốc giới (35 mảnh); tập “Bảng đăng ký mốc giới”; tập “Bảng tọa độ, độ cao mốc giới” và tập “Bảng quy thuộc các cồn, bãi trên sông suối biên giới” có khối lượng khoảng hơn 2.200 trang văn bản. Đây là hiệp định biên giới đầy đủ nhất, lớn nhất mà Việt Nam ký với một nước láng giềng trong lịch sử của mình.

Tiếp theo Nghị định thư về Phân giới cắm mốc, việc ký chính thức Hiệp định về Quy chế quản lý biên giới, Hiệp định về Cửa khẩu và quản lý cửa khẩu, là một bước đi quan trọng mở đầu cho thời kỳ mới trong quản lý biên giới hai nước. Hai văn kiện này sau khi có hiệu lực sẽ thay thế “Hiệp định tạm thời về việc giải quyết các công việc trên vùng biên giới giữa Chính phủ nước Cộng hòa XHCN Việt Nam và Chính phủ nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa” ký ngày 7-11-1991. Hiệp định về Cửa khẩu và quản lý cửa khẩu quy định rõ hệ thống cửa khẩu song phương và cửa khẩu quốc tế cùng chế độ pháp lý của chúng. Hai bên xác nhận 9 cặp cửa khẩu quốc tế đã được mở trên vùng biên giới, gồm: Ma Lù Thàng– Kim Thủy Hà, Lào Cai – Hà Khẩu (đường bộ), Lào Cai – Hà Khẩu (đường sắt), Thanh Thủy – Thiên Bảo, Trà Lĩnh – Long Bang, Tà Lùng – Thủy Khẩu, Đồng Đăng – Bằng Tường (đường sắt), Hữu Nghị– Hữu Nghị Quan, Móng Cái - Đông Hưng và 13 cửa khẩu khác sẽ được mở khi có đủ điều kiện. Về thời gian và thể thức mở các cửa khẩu này sẽ do hai bên thỏa thuận qua đường ngoại giao. Hiệp định về Quy chế quản lý biên giới (gồm 11 chương và 54 điều) quy định cụ thể nội dung các hoạt động trên biên giới, các công trình biên giới, chế độ qua lại biên giới, chế độ kiểm tra, hợp tác giải quyết các vụ việc biên giới. Nhờ tiếp thu các kinh nghiệm quản lý biên giới của một số nước, nhất là kinh nghiệm quản lý biên giới giữa hai nước trong thời gian qua, nên Hiệp định về Quy chế quản lý biên giới mà hai nước vừa ký là hiệp định có tính hiện đại, nội dung chặt chẽ, đáp ứng được các yêu cầu mới, đặc biệt là các quy định mới về cơ chế tổ chức quản lý thông qua các Đại diện biên giới.

Ngoài ý nghĩa lần đầu tiên xác định về một đường biên giới rõ ràng giữa hai nước nêu trên, việc ký kết 3 văn kiện lần này đã góp phần củng cố và thúc đẩy quan hệ hữu nghị hợp tác truyền thống Việt Nam – Trung Quốc. Ban Đối ngoại Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc đã khẳng định: “Việc giải quyết ổn thỏa vấn đề biên giới, kết thúc lịch sử “có biên không có giới”, xây dựng biên giới Trung – Việt thành biên giới hòa bình, ổn định lâu dài không những là nguyện vọng tha thiết của nhân dân hai nước, mà còn là vấn đề lớn trong quá trình hai nước giải quyết đầu tiên và có được bước đột phá triệt để kể từ khi bình thường hóa quan hệ đến nay”. Thật vậy, việc hoàn thành phân giới cắm mốc và ký kết các văn bản pháp lý gần đây là một sự kiện có tầm quan trọng đặc biệt trong lịch sử tồn tại và phát triển của mỗi nước. Đó còn là một món quà đầy ý nghĩa vào thời điểm khi mà Việt Nam và Trung Quốc đang hướng đến kỷ niệm 60 năm hai nước thiết lập quan hệ ngoại giao (18-1-1950 – 18-1-2010). Và chắc chắn, thành tựu về nhiều mặt, trong đó có thành tựu về việc phân giới cắm mốc mà hai nước đạt được trong thời gian qua sẽ làm cho năm 2010 - “Năm quan hệ ngoại giao Trung – Việt”, “Năm hữu nghị Việt – Trung” - trở thành năm mở đầu cho một chương mới về quan hệ giữa hai nước trong tương lai. Từ đây, nhân dân hai nước Việt Nam, Trung Quốc tin tưởng rằng, không có một khó khăn nào mà chúng ta không giải quyết được. Ba vấn đề về biên giới do lịch sử để lại trong quan hệ Việt Nam – Trung Quốc thì hai vấn đề (đường biên giới đất liền và phân định Vịnh Bắc Bộ) đã được giải quyết. Vấn đề còn lại- biên giới trên biển giữa Việt Nam và Trung Quốc- cũng sẽ được hai nước giải quyết thấu đáo. Nói cách khác, bằng những kinh nghiệm quý báu của chính mình, trên cơ sở tôn trọng chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của nhau, tôn trọng luật pháp quốc tế, đặc biệt là Công ước về Luật Biển của Liên hợp quốc năm 1982, Việt Nam và Trung Quốc cùng các nước liên quan sẽ tìm ra được một giải pháp cơ bản lâu dài cho vấn đề Biển Đông, góp phần mang lại sự ổn định cho khu vực và thế giới.

PGS, TS.  NGUYỄN HỒNG THAO

Phó Chủ nhiệm Ủy ban Biên giới quốc gia

 

Ý kiến bạn đọc (0)