QPTD -Chủ Nhật, 14/08/2011, 23:21 (GMT+7)
Một số giải pháp chủ yếu xây dựng nền công nghiệp quốc phòng nước ta hiện nay

Với chức năng, nhiệm vụ nghiên cứu, sản xuất, sửa chữa, cải tiến, hiện đại hóa vũ khí, trang bị kỹ thuật (VKTBKT), vật tư kỹ thuật, trang bị hậu cần phục vụ cho quốc phòng-an ninh (QP-AN) và tham gia các chương trình kinh tế-xã hội (KT-XH), Công nghiệp Quốc phòng (CNQP) đã và đang là một trong những thành tố quan trọng không thể thiếu trong xây dựng tiềm lực QP-AN; là bộ phận của công nghiệp quốc gia (CNQG) trong cơ chế mới. Những năm qua, dưới sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước, trực tiếp là của Đảng ủy Quân sự Trung ương và Bộ Quốc phòng, sự giúp đỡ của các cơ quan liên quan trong và ngoài quân đội, CNQP đã không ngừng phát triển, đáp ứng một phần đòi hỏi bức xúc về khả năng công nghệ trong nghiên cứu, sản xuất, sửa chữa, cải tiến, nâng cao chất lượng và tính đồng bộ của VKTBKT cho quân đội; đồng thời, góp phần nâng cao năng lực sản xuất công nghiệp, phục vụ nhu cầu đời sống nhân dân. Tuy nhiên, xét về tổng thể, quy mô sản xuất của các doanh nghiệp CNQP còn nhỏ, hẹp; trình độ công nghệ sản xuất, sửa chữa VKTBKT còn lạc hậu; việc ứng dụng công nghệ tiên tiến chưa được nhiều, hao phí nguyên liệu trong sản xuất còn lớn. CNQP của ta chưa có đủ khả năng để sản xuất các phương tiện tác chiến hiện đại; so với một số ngành công nghiệp dân sinh, trình độ công nghệ của một số nhà máy CNQP cũng bị tụt hậu rõ rệt... Trong khi đó, yêu cầu của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc ngày càng cao đã làm nảy sinh những mâu thuẫn, bất cập mới trên lĩnh vực này. Đó là, mâu thuẫn giữa tiềm lực, thực lực của CNQP với nhiệm vụ bảo đảm VKTBKT tương đối hiện đại và hiện đại cho lực lượng vũ trang (LLVT), trước hết là quân đội nhân dân; giữa cân đối đầu tư phát triển CNQP với đầu tư phát triển nền CNQG trong thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước; giữa bảo đảm tính độc lập, tự chủ với mở rộng hợp tác quốc tế trong lĩnh vực CNQP. Để khắc phục những hạn chế và mâu thuẫn trên, trong xây dựng và phát triển CNQP, chúng ta phải có sự nỗ lực phấn đấu rất cao, đầu tư có chiều sâu, đổi mới toàn diện cả về tư duy, cơ chế cũng như quá trình tổ chức thực hiện, với nhiều giải pháp đồng bộ, thiết thực và hiệu quả. Bài viết này xin nêu một số giải pháp chủ yếu xây dựng, phát triển nền CNQP hiện nay và trong tương lai gần, để cùng nghiên cứu, trao đổi.

Một là, quán triệt sâu sắc, cụ thể hóa quan điểm của Đảng, Nhà nước về xây dựng, phát triển CNQP trong thời kỳ mới. Xuất phát từ mục tiêu của CNQP nước ta là vừa phải bảo đảm tăng cường tiềm lực QP-AN, vừa góp phần phát triển KT-XH, nên phương hướng phát triển, cơ chế quản lý, mô hình tổ chức của CNQP cần được điều chỉnh cho phù hợp với thực tiễn phát triển của CNQG và đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ QP-AN bảo vệ Tổ quốc trong thời kỳ mới. Theo đó, trong quá trình xây dựng và phát triển CNQP phải thực hiện tốt việc quán triệt cho các cấp, các ngành, các địa phương và toàn dân về quan điểm, chủ trương, đường lối, mục tiêu, nội dung phát triển CNQP của Đảng thời kỳ mới. Qua đó, nâng cao một bước nhận thức về vị trí, vai trò của CNQP; thấy rõ: xây dựng và phát triển CNQP không phải là “gánh nặng” của nền kinh tế, mà là vấn đề chiến lược cốt yếu; không đơn thuần cho mục tiêu bảo đảm VKTBKT cho các LLVT, góp phần nâng cao tiềm lực quân sự, quốc phòng, ngăn ngừa chiến tranh xâm lược mà còn tham gia có hiệu quả vào phát triển KT-XH, bảo đảm cho đất nước ổn định và phát triển bền vững. CNQP không thể khép kín và phát triển biệt lập, mà nó chỉ có thể phát triển khi được gắn kết chặt chẽ với sự phát triển của CNQG trong tiến trình phát triển của đất nước. Đồng thời, nâng cao trách nhiệm, quyết tâm của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân, của cả hệ thống chính trị trong xây dựng CNQP. Việc quán triệt phải được tiến hành thường xuyên và cụ thể hóa thành các tiêu chí cho từng lĩnh vực, từng giai đoạn. Bên cạnh đó, cần chủ động đưa các quan điểm của Đảng về CNQP vào chương trình giáo dục QP-AN cho các đối tượng, nhất là đội ngũ cán bộ chủ trì các cấp, cán bộ ở các cơ quan chiến lược. Đối với ngành chức năng và các cơ quan liên quan, cần coi trọng việc cụ thể hóa các nghị quyết của Đảng về CNQP, nhất là Nghị quyết 27-NQ/TW của Bộ Chính trị về phát triển CNQP đến năm 2010; trên cơ sở đó, rà soát, bổ sung quy hoạch, kế hoạch xây dựng, phát triển CNQP theo mục tiêu đã đề ra.  

Hai là, đổi mới tổ chức, cơ chế quản lý CNQP. Đây là một trong những nội dung cơ bản, quan trọng, là giải pháp có tính đột phá nhằm khắc phục tình trạng phân tán, khép kín, để nâng cao năng lực sản xuất của CNQP, tăng khả năng đóng góp cho nền kinh tế và huy động nguồn lực của các ngành kinh tế cho CNQP. Trong quá trình đổi mới, cần tính toán kỹ các yếu tố liên quan, xây dựng kế hoạch, quy hoạch và lộ trình thực hiện với bước đi phù hợp. Trước hết, cần hoàn thành việc thống nhất quy tụ các cơ sở CNQP nòng cốt về một đầu mối quản lý trong Bộ Quốc phòng. Tiếp theo, những bộ phận, đơn vị ít đặc thù quân sự, có khả năng thích ứng với cơ chế mới, có thể được chuyển giao sớm hơn cho nền kinh tế quốc dân. Trên cơ sở đó, xây dựng mô hình tổ chức và cơ chế quản lý CNQP cho phù hợp. Về tổ chức, có thể nghiên cứu tinh giản số đầu mối các doanh nghiệp CNQP mà Bộ Quốc phòng đang đảm nhiệm vai trò cấp trên trực tiếp; tách chức năng chỉ huy quân sự với chức năng trực tiếp quản lý doanh nghiệp, nhằm tăng độ chuyên sâu, tạo sức mạnh liên kết, phân công chuyên môn hóa và nâng cao hiệu quả đầu tư trong các doanh nghiệp CNQP. Đối với các cơ sở CNQP thuộc Bộ Quốc phòng (nhất là những cơ sở sản xuất, sửa chữa lớn VKTBKT và sản phẩm hậu cần chuyên dụng), có thể sắp xếp, tổ chức thành các doanh nghiệp theo lĩnh vực và nhóm sản phẩm; thí điểm tổ chức mô hình công ty “mẹ-con”. Đồng thời, có thể mạnh dạn tổ chức tập đoàn CNQP có khả năng tích tụ cao về vốn, nhân lực, trang bị, công nghệ để định hướng, chi phối hoạt động trên một số lĩnh vực đặc thù, nhạy cảm. Nghiên cứu, điều chỉnh thế bố trí các cơ sở CNQP theo địa bàn, hình thành cụm CNQP theo các vùng chiến lược. Đề xuất với Chính phủ thí điểm tổ chức khu CNQP theo mô hình: kết hợp kinh tế với quốc phòng trên địa bàn chiến lược, do Bộ Quốc phòng quản lý, bao gồm cụm CNQP và một số doanh nghiệp, tập đoàn công nghiệp làm nòng cốt để tạo đột phá, nhân rộng nếu xét thấy hợp lý. Đối với các cơ sở sửa chữa VKTBKT nhỏ và vừa, có thể liên kết, thực hiện phân công chuyên môn hóa với các nhà máy sửa chữa lớn VKTBKT, hoặc chuyển về khối bảo đảm kỹ thuật của quân chủng, binh chủng. Các cơ sở hậu cần chuyên sản xuất các sản phẩm quân trang, quân lương, y-dược có thể nghiên cứu, quy hoạch về tổ chức gắn với khối các doanh nghiệp làm kinh tế của quân đội, hoặc nếu đủ điều kiện thì sớm cổ phần hóa theo tiến trình đổi mới doanh nghiệp nhà nước đang được triển khai... Về lâu dài, có thể nghiên cứu mô hình tổ chức tổ hợp CNQP, liên kết chặt chẽ các bộ phận lập pháp, hành pháp, giới công nghiệp, giới quân sự, tổ chức nghiên cứu khoa học để nghiên cứu, chế tạo các sản phẩm quân sự, dân sự chất lượng cao, như xu hướng đang làm của nhiều nước trên thế giới.

Về cơ chế quản lý, cần được đổi mới từng bước, bảo đảm không ảnh hưởng đến tiềm lực và khả năng đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ thường xuyên cũng như đột xuất của QP-AN; đồng thời, ngăn ngừa các tác động tiêu cực của cơ chế thị trường. Hiện nay, cơ chế quản lý các doanh nghiệp quốc phòng vẫn là sự kết hợp giữa cơ chế quản lý quân sự và cơ chế quản lý doanh nghiệp nhà nước. Bên cạnh mặt tích cực, cơ chế này vẫn tồn tại những điểm bất cập, thiếu đồng bộ giữa các quy định trong lĩnh vực quân sự và lĩnh vực kinh tế. Do đó, việc hoàn thiện cơ chế quản lý nhà nước về CNQP có thể theo hướng hội nhập vào cơ chế, cơ cấu chung của CNQG. Đối với các doanh nghiệp CNQP và doanh nghiệp dân sinh tham gia sản xuất mặt hàng quân sự, có thể quản lý bằng các công cụ kinh tế, pháp luật, kết hợp chặt chẽ cơ chế đấu thầu, đặt hàng, chỉ định thầu để nâng cao hiệu quả sản xuất và năng lực cạnh tranh. Trong quá trình thực hiện, phải phân định rõ chức năng, phạm vi quản lý sản xuất, kinh doanh của các doanh nghiệp CNQP; giữa thẩm quyền quản lý nhà nước về kinh tế với thẩm quyền chỉ huy của đầu mối cấp trên đối với cơ sở CNQP; tách biệt giữa chức trách chỉ huy quân sự với chức năng trực tiếp quản lý doanh nghiệp. Trong đó, cơ quan quản lý nhà nước về CNQP tập trung vào việc xây dựng chiến lược, kế hoạch phát triển CNQP, xác định cơ cấu tổ chức, quản lý, điều hành, phối hợp các cơ sở sản xuất, nghiên cứu, kinh doanh... Cùng với đó, tập trung bổ sung, hoàn thiện các văn bản pháp quy, điều chỉnh các mối quan hệ trong các lĩnh vực hoạt động theo Pháp lệnh về CNQP, tiến tới xây dựng Luật về CNQP.

Ba là, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực cho CNQP. Trên cơ sở tổ chức, biên chế đã được xác định, tập trung nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công nhân ngành CNQP; trong đó, chú trọng phát triển toàn diện cả về số lượng và chất lượng tổng hợp, trước hết là chất lượng chính trị và chuyên môn nghiệp vụ. Yêu cầu đặt ra đối với đội ngũ cán bộ chuyên môn kỹ thuật là, phải có khả năng tiếp cận với khoa học-công nghệ tiên tiến thuộc chuyên ngành phụ trách; có năng lực sáng tạo trong nghiên cứu, ứng dụng các tiến bộ khoa học-công nghệ mới; đề xuất được sáng kiến cải tiến, nâng cao tính năng chiến-kỹ thuật của VKTBKT. Với đội ngũ công nhân kỹ thuật (bao gồm cả đối tượng kỹ sư thực hành), phải có tay nghề cao, chuyên sâu, có khả năng sử dụng phương tiện, trang bị mới, tiếp cận công nghệ mới, có phương pháp làm việc khoa học và tác phong công nghiệp. Để làm được điều đó, trước hết, cần kết hợp nhiều hình thức đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ; chú trọng đào tạo tất cả các bậc, từ công nhân kỹ thuật tới đại học và sau đại học; kết hợp đào tạo cơ bản, chuyên sâu tại các nhà trường với đào tạo tại chức, nhất là đào tạo, bồi dưỡng thông qua hoạt động thực tiễn tại cơ sở. Nội dung đào tạo cần tập trung ưu tiên cho những ngành nghề kỹ thuật, công nghệ đặc thù, nhất là những ngành, lĩnh vực công nghệ cao, gắn với các hướng phát triển trọng tâm của CNQP, như: công nghệ chế tạo tên lửa, đóng tàu, tự động hóa, cơ khí chính xác, điện tử, tin học... Coi trọng việc tuyển chọn, bồi dưỡng, đào tạo và rèn luyện qua thực tiễn các nhân tài khoa học để có được những tổng công trình sư, chuyên gia đầu ngành về thiết kế-công nghệ chế tạo vũ khí mới. Bên cạnh đó, có thể xây dựng và đề xuất cơ chế, chính sách phù hợp nhằm khai thác được tiềm lực (cả con người và cơ sở vật chất khoa học-công nghệ) của đất nước cho phát triển CNQP. Đồng thời, đầu tư ngân sách cho các cơ sở đào tạo, các viện nghiên cứu trong và ngoài quân đội, tham gia đào tạo nâng cao chất lượng nguồn nhân lực cho CNQP thời kỳ mới.

Đại tá, TS. VŨ ĐĂNG MINH

Viện Chiến lược Quân sự-BQP

 

Ý kiến bạn đọc (0)