QPTD -Chủ Nhật, 21/08/2011, 23:36 (GMT+7)
Một số điểm mới trong Dự thảo Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011)

Từ khi Cương lĩnh năm 1991 ra đời đến nay, tình hình thế giới và trong nước đã có những biến đổi to lớn. Nhiều vấn đề thực tiễn đặt ra được nhận thức và giải quyết qua các nhiệm kỳ đại hội Đảng, qua các cuộc tổng kết lý luận-thực tiễn. Nghị quyết Đại hội X của Đảng đã khẳng định: “Qua tổng kết lý luận-thực tiễn 20 năm đổi mới, chúng ta càng thấy giá trị tư tưởng và vai trò chỉ đạo to lớn của Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (CNXH) (năm 1991), đồng thời, càng thấy rõ thêm những vấn đề mới đặt ra cần được giải đáp. Sau Đại hội X, Đảng ta cần tiếp tục nghiên cứu, bổ sung và phát triển Cương lĩnh, làm nền tảng chính trị, tư tưởng cho mọi hoạt động của Đảng, Nhà nước và nhân dân ta trong quá trình đưa nước ta đi lên CNXH”1.

Thực hiện tư tưởng chỉ đạo trên, Đảng ta đã tập trung chỉ đạo tổng kết, bổ sung và phát triển Cương lĩnh năm 1991 để trình Đại hội XI. Tại Hội nghị Trung ương 10 (khóa X), Trung ương đã nhất trí về những tư tưởng chỉ đạo; trong đó, đã nhấn mạnh: việc bổ sung, phát triển Cương lĩnh phải theo tinh thần tiếp tục đổi mới trên cơ sở những quan điểm, tư tưởng, định hướng cơ bản của Cương lĩnh năm 1991; bám sát thực tiễn của đất nước và thời đại; phản ánh được ý chí, nguyện vọng của nhân dân, tăng cường đồng thuận xã hội, tạo động lực mạnh mẽ để đưa đất nước đi lên. Cương lĩnh (bổ sung và phát triển) phải kế thừa những nội dung Cương lĩnh năm 1991 vẫn còn nguyên giá trị; bổ sung những vấn đề đã được các đại hội, Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị (từ khoá VII đến khoá X) kết luận, những nội dung đã rõ, đã chín muồi, được thực tiễn chứng minh là đúng; điều chỉnh những điểm, mà đến nay không còn phù hợp; làm rõ thêm một số mối quan hệ cơ bản, quan trọng, có ý nghĩa chỉ đạo đối với công cuộc xây dựng XHCN của nước ta mà tổng kết 20 năm đổi mới đã làm rõ một bước.

Quán triệt sâu sắc những tư tưởng chỉ đạo đó, Dự thảo Cương lĩnh lần này  đã được Hội nghị Trung ương 12 (khóa X) nhất trí thông qua để đưa ra lấy ý kiến trong Đảng, Quốc hội và nhân dân cả nước, với tên gọi: Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH (bổ sung, phát triển năm 2011) (Sau đây gọi tắt là Cương lĩnh năm 2011). Dự thảo Cương lĩnh năm 2011 có một số điểm mới đáng chú ý như sau:

Về đánh giá quá trình cách mạng Việt Nam: Kế thừa đánh giá của Cương lĩnh năm 1991, của các văn kiện đại hội thời kỳ đổi mới, nhất là của Đại hội IX, Dự thảo Cương lĩnh năm 2011 đã đánh giá khái quát quá trình cách mạng Việt Nam trong hơn 80 năm qua; vừa khẳng định những dấu mốc lịch sử quan trọng của cách mạng nước ta dưới sự lãnh đạo của Đảng, vừa khơi dậy được lòng tự hào dân tộc, không làm ảnh hưởng đến quan hệ đối ngoại hiện nay.

 Về bối cảnh quốc tế. Dự thảo Cương lĩnh năm 2011 kế thừa những nội dung còn giá trị trong Cương lĩnh năm 1991, những dự báo trong các văn kiện Đại hội Đảng trước đây và viết gọn hơn theo hướng không đi sâu vào những vấn đề không liên quan trực tiếp đến nước ta, nhất là những vấn đề còn có ý kiến khác nhau, như về nguyên nhân sụp đổ của chế độ XHCN ở Liên Xô (trước đây) và Đông Âu; cân nhắc, đánh giá, đúng mức hơn về CNTB. Điểm mới nhất là nhận định về đặc điểm nổi bật trong giai đoạn hiện nay của thời đại "là các nước với chế độ xã hội và trình độ phát triển khác nhau cùng tồn tại, vừa hợp tác, vừa đấu tranh, cạnh tranh gay gắt vì lợi ích quốc gia, dân tộc. Cuộc đấu tranh của nhân dân các nước vì hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ, phát triển và tiến bộ xã hội dù gặp nhiều khó khăn, thử thách, nhưng sẽ có những bước tiến mới. Theo quy luật tiến hoá của lịch sử, loài người nhất định sẽ tiến tới CNXH”2.

Về mô hình, mục tiêu, phương hướng. Cương lĩnh năm 1991 xác định 6 đặc trưng của mô hình xã hội XHCN mà nhân dân ta xây dựng. Kế thừa Văn kiện Đại hội X, so với Cương lĩnh năm 1991, Dự thảo Cương lĩnh năm 2011 có một số điểm mới như sau:

(1) Bổ sung thêm hai đặc trưng: Đặc trưng bao trùm, tổng quát: “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” và “Có Nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo”. Hai đặc trưng này đã được Đại hội X bổ sung, nhưng điểm mới so với Đại hội X là chuyển từ “dân chủ” lên trước từ “công bằng”. Bởi vì, cả về lý luận và thực tiễn đều khẳng định: có dân chủ thì mới có công bằng, văn minh; đồng thời, để nhấn mạnh bản chất của xã hội ta là xã hội dân chủ theo tư tưởng Hồ Chí Minh.

(2) Tiếp tục bổ sung, phát triển nội dung một số đặc trưng:

- Đặc trưng về con người. Cương lĩnh năm 1991 xác định: Con người được giải phóng khỏi áp bức, bóc lột, bất công, làm theo năng lực, hưởng theo lao động, có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện cá nhân. Dự thảo Cương lĩnh năm 2011 kế thừa Văn kiện Đại hội X (đã bỏ cụm từ "bóc lột"),  bỏ các  cụm từ “được giải phóng khỏi áp bức, bóc lột, bất công”, viết: “Con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện”. Xác định như thế là chính xác, vì Cương lĩnh nói tới mục tiêu đã xây dựng xong CNXH.

- Đặc trưng về dân tộc. Cương lĩnh năm 1991 xác định: Các dân tộc trong nước bình đẳng, đoàn kết và giúp đỡ lẫn nhau cùng tiến bộ. Đại hội X thêm từ “tương trợ” sau “đoàn kết”. Dự thảo Cương lĩnh năm 2011 thay từ “tương trợ” bằng “tôn trọng” và thay từ “tiến bộ” bằng “phát triển”. Vì vấn đề đặt ra là, các dân tộc tôn trọng nhau và không chỉ giúp nhau cùng tiến bộ mà còn giúp nhau cùng phát triển.

(3) Kế thừa sự bổ sung, phát triển của Đại hội X về đặc trưng “Do nhân dân làm chủ" (bỏ từ “lao động” sau từ "nhân dân"), bởi vì, xã hội này là xã hội của nhân dân và đặc trưng Cương lĩnh nói tới là mục tiêu đã xây dựng xong CNXH, nên lúc đó, không ai là người không lao động.

(4) Về đặc trưng kinh tế. Cương lĩnh năm 1991 xác định “Có một nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và chế độ công hữu về các tư liệu sản xuất chủ yếu”. Đại hội X thể hiện có "mềm" hơn, nhưng không mâu thuẫn với Cương lĩnh 1991: “Có nền kinh tế phát triển cao, dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất”. Để khẳng định rõ mục tiêu khi đã xây dựng xong CNXH, Dự thảo Cương lĩnh năm 2011 viết tương tự như Cương lĩnh năm 1991. Viết như vậy để Đảng ta chủ động lãnh đạo, chỉ đạo, kiên trì phấn đấu thực hiện từng bước trong suốt thời kỳ quá độ.

Về mục tiêu tổng quát, mục tiêu của chặng đường tới. Thời kỳ quá độ lên CNXH ở nước ta diễn ra trong thời gian rất dài, chưa thể xác định cụ thể mốc thời gian kết thúc. Vì thế, Cương lĩnh chỉ nêu mục tiêu tổng quát khi kết thúc thời kỳ quá độ và mục tiêu đến khoảng giữa thế kỷ XXI. Theo đó, “Mục tiêu tổng quát khi kết thúc thời kỳ quá độ ở nước ta là xây dựng xong về cơ bản nền tảng kinh tế của CNXH với kiến trúc thượng tầng về chính trị, tư tưởng, văn hoá phù hợp, tạo cơ sở làm cho nước ta trở thành một nước XHCN ngày càng phồn vinh”3. So với Cương lĩnh năm 1991, Dự thảo Cương lĩnh năm 2011 có điều chỉnh một vài từ; dùng cụm từ “nền tảng kinh tế” thay cho “những cơ sở kinh tế". Viết như vậy vừa thể hiện rõ quá trình phát triển, vừa có ý nghĩa động viên toàn Đảng, toàn dân ta phấn đấu vì một xã hội tương lai tốt đẹp. Về mục tiêu của chặng đường sắp tới, Dự thảo Cương lĩnh năm 2011 chỉ nêu mục tiêu đến khoảng giữa thế kỷ XXI: toàn Đảng, toàn dân ta phải ra sức phấn đấu xây dựng nước ta trở thành một nước công nghiệp hiện đại, theo định hướng XHCN.

Về các phương hướng cơ bản. Cương lĩnh năm 1991 xác định 7 phương hướng, với nội dung có nhiều trùng lắp những nội dung được đề cập ở mục III: Những định hướng lớn về chính sách kinh tế-xã hội (KT-XH), quốc phòng-an ninh, đối ngoại. Để khắc phục sự trùng lắp, kế thừa cách diễn đạt của Đại hội X, Dự thảo Cương lĩnh năm 2011 nêu 8 phương hướng cơ bản sau đây: Một là, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước gắn với phát triển kinh tế tri thức. Hai là, phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN. Ba là, xây dựng nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Bốn là, bảo đảm vững chắc quốc phòng và an ninh quốc gia. Năm là, thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hoà bình, hợp tác và phát triển; chủ động và tích cực hội nhập quốc tế. Sáu là, xây dựng nền dân chủ XHCN, thực hiện đại đoàn kết toàn dân tộc, củng cố và mở rộng Mặt trận dân tộc thống nhất. Bảy là, xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Tám là, xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh”4.

Để thực hiện đúng các phương hướng cơ bản trên, Dự thảo Cương lĩnh năm 2011 còn bổ sung một nội dung về việc nắm vững và giải quyết "các mối quan hệ lớn như: quan hệ giữa đổi mới, ổn định và phát triển; giữa đổi mới kinh tế và đổi mới hệ thống chính trị; giữa kinh tế thị trường và định hướng XHCN; giữa phát triển lực lượng sản xuất và xây dựng, hoàn thiện từng bước quan hệ sản xuất; giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hoá, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội; giữa xây dựng CNXH và bảo vệ Tổ quốc XHCN; giữa độc lập tự chủ và hội nhập quốc tế; giữa Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ"5;.... Đây là kinh nghiệm của 20 năm qua và có giá trị chỉ đạo trong những thập kỷ tới.

Về định hướng phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN. Cương lĩnh năm 1991 chưa sử dụng thuật ngữ kinh tế thị trường. Kế thừa sự bổ sung, phát triển qua các kỳ Đại hội Đảng VIII, IX, X, Dự thảo Cương lĩnh năm 2011 viết: “Phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN với nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, hình thức tổ chức kinh doanh và hình thức phân phối"6.

Về số lượng, vai trò, vị trí của các thành phần kinh tế. Cương lĩnh năm 2011 xác định 3 thành phần kinh tế chính là: kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể, kinh tế tư nhân; đồng thời, khẳng định: "Các hình thức sở hữu hỗn hợp và đan kết với nhau hình thành các tổ chức kinh tế đa dạng ngày càng phát triển...”7 Trong quá trình xây dựng dự thảo, có ý kiến cho rằng, không nên xác định thành phần kinh tế nào là chủ đạo, là nền tảng; có ý kiến đề nghị chỉ cần nêu “kinh tế nhà nước là chủ đạo”. Tại Hội nghị Trung ương 12, trong Bản giải trình, Bộ Chính trị đề nghị: việc xác định vai trò, vị trí của kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể là vấn đề rất hệ trọng, liên quan đến đặc trưng của xã hội XHCN; vấn đề này đã được thảo luận nhiều và được đa số đại biểu tán thành. Là Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH, những định hướng lớn về thành phần kinh tế và vai trò của kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể có ý nghĩa hết sức quan trọng. Vì vậy, Cương lĩnh cần khẳng định vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước, vai trò nền tảng của kinh tế nhà nước và kinh tế tập thể.

Về định hướng phát triển quốc phòng, an ninh. Dự thảo Cương lĩnh năm 2011 viết: “Mục tiêu, nhiệm vụ của quốcphòng, an ninh là bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ XHCN, giữ vững hoà bình, ổn định chính trị và an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội; chủ động ngăn chặn, làm thất bại mọi âm mưu và hành động chống phá của các thế lực thù địch đối với sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta”8. So với Cương lĩnh năm 1991, Dự thảo Cương lĩnh lần này đã xác định đầy đủ hơn, chính xác hơn mục tiêu, nhiệm vụ quốc phòng, an ninh. Sự phát triển này đã được xác định ở Văn kiện Đại hội IX, Nghị quyết Trung ương 8 (khoá IX) và Văn kiện Đại hội X.

Cương lĩnh năm 1991 mới đề cập đến “Phát triển đường lối và nghệ thuật quân sự chiến tranh nhân dân”, Dự thảo Cương lĩnh năm 2011 đã bổ sung thêm “lý luận, khoa học an ninh”. Cương lĩnh năm 1991 mới đề cập đến sự kết hợp kinh tế với quốc phòng - an ninh, quốc phòng - an ninh với kinh tế trong các kế hoạch phát triển KT-XH. Dự thảo Cương lĩnh năm 2011 xác định sự kết hợp này phải “trong từng chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chính sách phát triển KT-XH”. Cương lĩnh năm 1991 xác định “từng bước xây dựng nền công nghiệp quốc phòng, bảo đảm cho các lực lượng vũ trang, trong đó có công an nhân dân được trang bị kỹ thuật ngày càng hiện đại”. Dự thảo Cương lĩnh năm 2011 đã bổ sung, phát triển thành “Xây dựng nền công nghiệp quốc phòng, an ninh, bảo đảm cho các lực lượng vũ trang được trang bị kỹ thuật ngày càng hiện đại”9.

 Về phương hướng xây dựng Quân đội nhân dân và Công an nhân dân, cách thể hiện như Cương lĩnh năm 1991 chưa thật chính xác và còn trùng lắp. Dự thảo Cương lĩnh năm 2011 viết: “Xây dựng Quân đội nhân dân và Công an nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, tuyệt đối trung thành với Tổ quốc, với Đảng, Nhà nước và nhân dân, được nhân dân tin yêu”10.

Về vai trò lãnh đạo của Đảng, Nhà nước đối với quân đội và công an, Cương lĩnh năm 1991 chưa đề cập đến vai trò quản lý của Nhà nước. Vì thế, Dự thảo Cương lĩnh năm 2011 viết: “Tăng cường sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng, sự quản lý tập trung thống nhất của Nhà nước đối với Quân đội, Công an nhân dân và sự nghiệp quốc phòng-an ninh”11.

 Định hướng về đối ngoại. Cương lĩnh năm 1991 mới xác định mục tiêu của chính sách đối ngoại. Kế thừa sự phát triển của các đại hội, nhất là Đại hội X, Dự thảo Cương lĩnh năm 2011 đã thể hiện đầy đủ hơn: “Thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hoà bình, hợp tác và phát triển; đa phương hoá, đa dạng hoá quan hệ, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế; nâng cao vị thế của đất nước; vì lợi ích quốc gia, dân tộc, vì một nước Việt Nam XHCN giàu mạnh; là bạn, đối tác tin cậy và thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế, góp phần vào sự nghiệp hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội trên thế giới”12. Về hợp tác trong khu vực và quốc tế, Cương lĩnh năm 1991 mới chỉ ra sự hợp tác dựa trên những nguyên tắc cùng tồn tại hoà bình. Trên thực tế, sự hợp tác cần phải trên cơ sở những nguyên tắc được quốc tế thừa nhận. Do đó, Dự thảo Cương lĩnh năm 2011 viết “Hợp tác bình đẳng, cùng có lợi với tất cả các nước không phân biệt chế độ chính trị-xã hội khác nhau trên cơ sở những nguyên tắc cơ bản của Hiến chương Liên hợp quốc và luật pháp quốc tế”13. Cương lĩnh năm 1991 mới chỉ ra phát triển quan hệ với các nước Đông Nam Á, nhằm góp phần xây dựng khu vực này thành khu vực hoà bình và hợp tác. Trên thực tế, mục tiêu lớn hơn của sự hợp tác là ổn định, phát triển và phồn vinh. Vì thế, Dự thảo Cương lĩnh năm 2011 viết: “Phấn đấu cùng các nước ASEAN xây dựng Đông Nam Á thành khu vực hoà bình, ổn định, hợp tác và phát triển phồn vinh”14.v.v.

Về Đảng Cộng sản Việt Nam. Kế thừa cách diễn đạt bản chất của Đảng Cộng sản Việt Nam ở Đại hội X, Dự thảo Cương lĩnh năm 2011 viết: “Đảng Cộng sản Việt Nam là đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam; đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của dân tộc”15. Về nền tảng tư tưởng của Đảng, Dự thảo Cương lĩnh năm 2011 kế thừa Văn kiện Đại hội IX của Đảng, bổ sung làm rõ khái niệm, nguồn gốc, nội dung, vị trí, vai trò của tư tưởng Hồ Chí Minh đối với cách mạng nước ta. Về phương thức lãnh đạo của Đảng , Dự thảo bổ sung thêm: “Đảng thống nhất lãnh đạo công tác cán bộ và quản lý đội ngũ cán bộ”, “Đảng lãnh đạo thông qua tổ chức đảng và đảng viên hoạt động trong các tổ chức của hệ thống chính trị, tăng cường chế độ trách nhiệm cá nhân, nhất là người đứng đầu”16 v.v.

Tóm lại, Dự thảo Cương lĩnh năm 2011 bổ sung, phát triển ở tất cả 12 điểm trong 4 mục. Trên đây chỉ là một số điểm bổ sung, phát triển mới, quan trọng nhất. Bài viết chưa có điều kiện đi sâu phân tích kỹ cơ sở lý luận-thực tiễn của những điểm mới đó.

PGS,TS. NGUYỄN VIẾT THÔNG

Tổng Thư ký Hội đồng Lý luận Trung ương

_________

1- ĐCSVN - Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb CTQG, H. 2006, tr.72-73.

2- ĐCSVN: Dự thảo các Văn kiện trình Đại hội XI của Đảng (lưu hành nội bộ), tháng 4-2010, tr.6.

3, 4 - Sđd, tr. 7, 8.

5, 6, 7, 8, 9 - Sđd, tr. 8 - 13.

10, 11, 12, 13, 14, 15, 16 - Sđd, tr. 13 - 16.

 

Ý kiến bạn đọc (0)