QPTD -Thứ Sáu, 02/09/2011, 00:14 (GMT+7)
Mấy vấn đề về phát triển nông nghiệp, nông thôn gắn với quốc phòng-an ninh hiện nay

Hiện nay, nước ta cơ bản vẫn là nước nông nghiệp. Tỷ trọng giá trị sản phẩm khu vực nông nghiệp (bao gồm nông, lâm nghiệp và thuỷ sản) còn chiếm trên 20% GDP cả nước. Số dân sống ở nông thôn có khoảng 72%, khu vực nông thôn chiếm gần 70% lao động xã hội. Đảng và Nhà nước ta luôn xác định nông nghiệp là ngành có vị trí chiến lược đặc biệt quan trọng; đồng thời, khẳng định nông nghiệp, nông thôn là nền tảng của sự ổn định. Vì vậy, đẩy mạnh phát triển nông nghiệp, nông thôn gắn với quốc phòng - ninh (QP-AN) là vấn đề có ý nghĩa thực tiễn to lớn trong tình hình hiện nay. Đây cũng là bước cụ thể hóa góp phần quán triệt quan điểm kết hợp phát triển kinh tế - xã hội (KT-XH) với tăng cường QP-AN của Đảng, đáp ứng yêu cầu mới của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Xuất phát từ quan điểm, nhận thức đúng đắn đó, nhiều năm qua, nhất là trong thời kỳ đổi mới, Đảng ta đã có nhiều chủ trương, chính sách mang tính đột phá về nông nghiệp, nông thôn, đặc biệt là về nông nghiệp. Nhờ vậy, nông nghiệp nước ta có những bước tiến vượt bậc. Từ một nước nông nghiệp còn lạc hậu, lại vừa thoát ra khỏi chiến tranh, thường xuyên phải đối mặt với tình trạng thiếu lương thực nghiêm trọng, song chỉ sau một thời gian không dài đã trở thành nước xuất khẩu gạo đứng thứ hai thế giới; kim ngạch xuất khẩu gạo cùng nhiều nông sản khác chiếm gần 25% tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước. Riêng năm 2007, mặc dù phải chịu hậu quả lớn của thiên tai, dịch bệnh, nhưng nông nghiệp nước ta vẫn duy trì được tốc độ phát triển theo hướng tích cực với giá trị sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản ước đạt gần 200 nghìn tỷ đồng, tăng 4,6% so với năm 2006.

Đạt được kết quả đó, trước hết là do có đường lối đổi mới đúng đắn, sáng tạo của Đảng. Chúng ta đã chủ động chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp, phát triển sản xuất và đẩy mạnh kinh tế nông thôn đi đôi với tích cực xây dựng, phát triển hạ tầng nông thôn bằng nhiều chủ trương và biện pháp thiết thực. Không chỉ chú trọng phát triển kinh tế, Đảng và Chính phủ còn có nhiều chính sách, chương trình phát triển nông nghiệp, nông thôn mang ý nghĩa chính trị, xã hội sâu sắc. Nông nghiệp phát triển nhanh, ổn định và bảo đảm tính bền vững đã làm thay đổi diện mạo nông thôn và nâng cao một bước đời sống nông dân; đồng thời, từng bước tạo ra cơ sở vật chất quan trọng cho khu vực phòng thủ, góp phần củng cố thế trận quốc phòng toàn dân và thế trận an ninh nhân dân ở từng địa phương, cơ sở.

Tuy nhiên, phát triển nông nghiệp, nông thôn gắn với tăng cường QP-AN cũng đang còn nhiều vấn đề phải tiếp tục xem xét, giải quyết. Hiện nay, ngành nông nghiệp còn bộc lộ một số tồn tại, đó là việc chuyển đổi cơ cấu nông nghiệp và kinh tế nông thôn còn chậm; năng suất, chất lượng và hiệu quả một số nông sản còn thấp, khả năng cạnh tranh sản phẩm từ nông nghiệp của ta chưa cao; vốn đầu tư và hiệu quả đầu tư cho phát triển hạ tầng nông thôn chưa đáp ứng với yêu cầu thực tiễn... Cùng với đó, lĩnh vực nông thôn cũng có sự chuyển biến chậm và không rõ nét, khoảng cách chênh lệch giàu nghèo giữa nông thôn và thành thị ngày càng lớn, đời sống của đại bộ phận nông dân còn nghèo, một bộ phận nhân dân, nhất là đồng bào các dân tộc thiểu số ở vùng sâu, vùng xa thậm chí còn phải đối mặt với cái đói hoặc nguy cơ bị đói. Việc kết hợp phát triển nông nghiệp, nông thôn với tăng cường QP-AN còn nhiều bất cập; có thời điểm chỉ tập trung phát triển kinh tế, chưa chăm lo thoả đáng về mặt xã hội, chưa gắn bó chặt chẽ giữa phát triển KT-XH với tăng cường QP-AN. Những mặt tồn tại này chẳng những làm chậm tiến trình CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn mà còn tiềm ẩn những vấn đề chính trị, xã hội phức tạp; đồng thời, cũng tác động không nhỏ đến yêu cầu củng cố QP-AN ở địa phương, cơ sở. Vì vậy, để làm chuyển biến một bước căn bản về nông nghiệp, nông thôn gắn với củng cố QP-AN, chúng ta cần thực hiện những nhóm giải pháp cụ thể đối với từng lĩnh vực.

Về bảo bảo đảm an ninh lương thực.

Hiện nay, dân số nước ta có trên 85 triệu người (con số này ước tính đến năm 2020 là trên 100 triệu) và gạo vẫn là lương thực chủ yếu của người dân. Mặc dù những năm gần đây chúng ta xuất khẩu bình quân từ 4 đến 4,5 triệu tấn gạo/năm, song hiện tại diện tích đất trồng lúa liên tục giảm (5 năm gần đây giảm 220.000ha); trong khi đó, Việt Nam là quốc gia thường xuyên bị thiên tai nên tiềm ẩn nguy cơ mất mùa là rất lớn. Nếu xảy ra tình trạng này, ngay trong điều kiện thời bình, đất nước cũng gặp rất nhiều khó khăn; trường hợp có chiến tranh thì khó khăn sẽ tăng lên gấp bội, thậm chí liên quan đến sự mất còn của đất nước. Vì vậy, việc bảo đảm an ninh lương thực quốc gia đối với nước ta là vấn đề chiến lược, đòi hỏi chúng ta phải chủ động dự liệu ngay từ bây giờ, bằng nhiều giải pháp thích hợp. Trước hết, Nhà nước cần có quy hoạch tổng thể đất trồng lúa; theo đó, hạn chế tối đa việc chuyển đất trồng lúa nước có hiệu quả cao tại các khu vực trọng điểm sang mục đích khác (như xây dựng khu đô thị mới, khu công nghiệp, khu nuôi, trồng các cây, con khác ngoài lúa, v.v); rà soát đất đai của các nông, lâm trường, các tổ chức sử dụng đất, qua đó kiên quyết thu hồi đất sử dụng không hiệu quả để giao cho nông dân; nghiên cứu, chuyển giao khoa học-công nghệ mới cho nông nghiệp, tổ chức lại mạng lưới khuyến nông, khuyến lâm một cách hiệu quả để phục vụ cho việc sản xuất lúa. Việc quy hoạch đất trồng lúa: bên cạnh việc tập trung chủ yếu ở đồng bằng sông Cửu Long và đồng bằng sông Hồng cũng cần quy hoạch cục bộ ở các vùng, các địa phương khác, vì trên thực tế, diện tích có khả năng tận dụng để trồng lúa ở nhiều tỉnh, kể cả các tỉnh thuộc vùng núi cao, nếu cộng lại là rất lớn. Vấn đề là, ủy ban nhân dân các cấp cùng với các ban ngành, trực tiếp là ngành nông nghiệp ở từng tỉnh cần hỗ trợ tích cực cho bà con nông dân cả về vốn, giống, kỹ thuật và thuỷ lợi; riêng đối với vùng đồng bào dân tộc thiểu số còn phải đẩy mạnh tuyên truyền để nông dân thay đổi tập quán trồng trọt, qua đó khai thác triệt để diện tích phù hợp để trồng lúa. Làm tốt vấn đề này, trong trường hợp mất mùa lúa diễn ra trên diện rộng,  chúng ta vẫn có một lượng lúa gạo cần thiết để giảm bớt khó khăn, đồng thời nâng cao khả năng tự bảo đảm về lương thực của các địa phương. Tổ chức tốt sản xuất cho đồng bào ở vùng cao, biên giới còn góp phần hạn chế tình trạng di cư tự do và khắc phục các “bản trắng” về QP-AN ở các địa bàn xung yếu.

Về xây dựng cơ sở hạ tầng nông nghiệp, nông thôn.

Cơ sở hạ tầng là điều kiện để phát triển, là tiêu chí để đánh giá mức độ phát triển về nông nghiệp và chất lượng đời sống nông thôn; đồng thời, nó cũng là tiền đề vật chất của nền quốc phòng toàn dân. Cơ sở hạ tầng nông thôn trước đây chủ yếu đề cập đến “điện-đường-trường-trạm-thủy lợi”, nhưng giờ đây còn là “nước sạch-môi trường-dịch vụ”. Để những vấn đề này vừa đủ sức phục vụ yêu cầu sản xuất và nhu cầu dân sinh nông thôn, vừa đáp ứng yêu cầu về QP-AN, đòi hỏi phải có sự kết hợp chặt chẽ trong từng khâu, từng bước, nhất là khâu quy hoạch. Thời gian tới, chúng ta cần có quy hoạch mang tính tổng thể về hạ tầng nông nghiệp, nông thôn và đặt nó trong mối quan hệ chặt chẽ với QP-AN. Trong quy hoạch tổng thể có thể xác định cả quy hoạch “cứng” và quy hoạch “mềm”. Quy hoạch “cứng” phải có tính chất ràng buộc, ổn định, lâu dài, cùng với cơ sở hạ tầng của các ngành kinh tế, các khu vực, từng bước hướng đến xây dựng một nền KT-XH – QP-AN hiện đại, phù hợp với tiến trình phát triển và phù hợp với yêu cầu sẵn sàng đối phó với chiến tranh cục bộ có sử dụng vũ khí công nghệ cao (nếu xảy ra). Theo đó, những khu vực đã được xác định, dù chưa có điều kiện xây dựng cũng phải giữ địa bàn để khi cần có thể làm được ngay (hiện nay một số nước cũng rất chú ý đến vấn đề này). Còn quy hoạch “mềm” là phần quy hoạch có tính tạm thời, phục vụ nhu cầu trước mắt là chủ yếu; tuy nhiên, vẫn phải bảo đảm tính lưỡng dụng (phục vụ dân sinh trong thời bình và phục vụ QP-AN trong thời chiến). Mỗi công trình khi xây dựng đều phải tính toán đến khả năng tự bảo vệ và được bảo vệ, khả năng di chuyển, nhất là hệ thống bệnh viện, trường học, hệ thống phát thanh, truyền hình và hệ thống kho trạm ở địa phương; tránh quy hoạch, xây dựng các công trình ở những nơi dễ bị địch cô lập, chia cắt, hoặc vô hình trung án ngữ các trục đường cơ động quan trọng, làm ảnh hưởng đến thế trận QP-AN.

Những vấn đề nêu trên liên quan rất lớn đến vốn đầu tư. Hiện nay, việc đầu tư cho sản xuất nông nghiệp và kinh tế nông thôn nói chung, cho phát triển hạ tầng nông thôn nói riêng còn nhiều hạn chế. Thực tiễn đang đòi hỏi đầu tư lớn và đầu tư nhanh cho khu vực này, nên ngoài sự tăng đầu tư vốn của Nhà nước, việc phát triển hạ tầng nông thôn rất cần huy động vốn từ nhiều nguồn, nhiều tổ chức, cá nhân, cả trong và ngoài nước. Song ngoại trừ Nhà nước, hầu hết các nhà đầu tư còn lại thường chọn nơi dễ và nhanh đem lại lợi nhuận nhất cho mình mà ít chú trọng đến các yếu tố khác. Vì vậy, các bộ, ngành và địa phương phải hướng quá trình đầu tư vào đúng quy hoạch đã được xác định, song phải tạo mọi điều kiện giúp các tổ chức, cá nhân yên tâm đầu tư lâu dài đối với hạ tầng nông thôn.

Về phân bố lại dân cư và lao động nông thôn.

Quá trình phát triển sản xuất nông nghiệp, nông thôn đòi hỏi phải điều chỉnh, bố trí, sắp xếp lại dân cư nhằm khai thác tiềm năng lao động, đất đai, giải quyết việc làm. Cùng với mục tiêu kinh tế, quá trình điều chỉnh phân bố lại dân cư, lao động còn có ý nghĩa củng cố QP-AN cho vùng sâu, vùng xa, vùng biên giới, hải đảo. Chỉ tính riêng giai đoạn 2001-2005, chúng ta đã sắp xếp, di chuyển trên 100 ngàn hộ dân, hình thành hàng ngàn điểm dân cư mới, có đủ cơ sở hạ tầng thiết yếu, phục vụ phát triển kinh tế- văn hoá - xã hội một cách bền vững cho người dân tái định cư cũng như người dân sở tại, góp phần giữ vững an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội tại các địa bàn xung yếu.    

Tuy vậy, hiện nay, lao động nông thôn bỏ sản xuất nông nghiệp đi làm các ngành nghề khác diễn ra khá phổ biến. Có địa phương chỉ còn khoảng 20-30% người làm nông nghiệp, có xã chủ yếu chỉ còn người già, phụ nữ và trẻ con. Điều đó có nghĩa là, số dân thực sống ở nông thôn so với con số thống kê theo đăng ký nhân khẩu rất khác nhau. Đây là vấn đề ảnh hưởng không nhỏ đến mục tiêu phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội ở khu vực nông nghiệp, nông thôn cũng như ở các khu vực đô thị, nhất là ở các thành phố lớn, do số dân tăng nhanh về mặt cơ học. Dưới góc độ QP-AN,  ở cả hai khu vực đều gặp khó khăn trong việc quản lý nhân khẩu và duy trì an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội. Khó khăn ở khu vực nông thôn càng rõ, do nảy sinh nhiều vấn đề về quản lý lực lượng dự bị động viên, gọi thanh niên nhập ngũ cũng như trong xây dựng, huấn luyện dân quân, tự vệ và lực lượng dân phòng.

Trước tình trạng nêu trên, chúng ta cần có nhiều giải pháp đồng bộ, trên cơ sở phối kết hợp thống nhất và chặt chẽ từ Chính phủ, các bộ, ngành đến từng địa phương, cơ sở, với mục tiêu trước mắt cũng như lâu dài là: giải quyết việc làm để  vừa giải phóng sức lao động của nông dân, vừa thu hút lao động vào khu vực nông thôn. Để thực hiện tốt mục tiêu này, chúng ta cần có sự đầu tư thỏa đáng cho phát triển, mở rộng sản xuất nông nghiệp, trong đó đầu tư mạnh vào khoa học-kỹ thuật, từ khâu giống cây trồng, vật nuôi đến quy trình canh tác, chăm sóc, thu hoạch và chế biến, bảo quản. Mặt khác, các địa phương khẩn trương rà soát lại các quy hoạch phát triển liên quan đến đất đai, qua đó thu hồi đất bị chiếm dụng hoặc sử dụng kém hiệu quả để tăng quỹ đất cho sản xuất nông nghiệp.

Cùng với việc mở rộng và tổ chức lại sản xuất nông nghiệp, cần tạo ra nhiều việc làm mới cho người lao động trong lĩnh vực công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ ở khu vực nông thôn, bảo đảm cho người dân có thể “ly nông nhưng không ly hương”. Tuy nhiên, để có thể “công nhân hóa nông dân” thì vấn đề đào tạo nghề đang là một đòi hỏi rất bức xúc. Tới đây, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn chủ trương ưu tiên xây dựng cơ sở hạ tầng và đào tạo nguồn nhân lực ở khu vực nông thôn từ hai nguồn vốn chính là Trái phiếu Chính phủ và vốn ODA. Mặc dù vậy, do nhu cầu đào tạo quá lớn nên các địa phương và ngay chính bà con nông dân cũng phải chủ động trong vấn đề này. Bên cạnh đó, các trường dạy nghề của quân đội, công an, các đơn vị kinh tế-quốc phòng cần tham gia tích cực vào việc đào tạo nghề và giải quyết việc làm cho số quân nhân vừa hoàn thành nghĩa vụ quân sự, các cựu quân nhân và bà con nông dân, nhất là con em các dân tộc thiểu số ở vùng sâu, vùng xa, vùng biên giới, hải đảo, trên những địa bàn có vị trí quan trọng về QP-AN.

DIỆP KỈNH TẦN

Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp

và Phát triển nông thôn

 

Ý kiến bạn đọc (0)