QPTD -Thứ Tư, 07/12/2011, 00:05 (GMT+7)
Mấy vấn đề về nghệ thuật quân sự trong chiến tranh nhân dân bảo vệ Tổ quốc

Chiến tranh bảo vệ Tổ quốc ngày nay nếu chúng ta buộc phải tiến hành, sẽ là cuộc chiến tranh nhân dân trong điều kiện hiện đại chống chiến tranh xâm lược sử dụng phổ biến vũ khí công nghệ cao và tác chiến điện tử mạnh của địch. Dự báo, khi tiến hành chiến tranh xâm lược, quân địch sẽ dựa vào ưu thế về hỏa lực của không quân và tên lửa từ hạm tàu đánh vào các mục tiêu quan trọng của đất nước, kết hợp đồng thời hoặc kế tiếp là các chiến dịch đổ bộ đường không, đổ bộ đường biển và có thể cả tiến công trên bộ từ lãnh thổ tiếp giáp vào chiều sâu đất nước, tạo thành thế thọc sâu, chia cắt chiến lược, chiến dịch, chiếm các mục tiêu, địa bàn chiến lược quan trọng; phối hợp với các lực lượng phản động trong nước tạo dựng “ngọn cờ”; đẩy mạnh các thủ đoạn chính trị, ngoại giao thâm độc và xảo quyệt hòng phân hóa, cô lập ta trên trường quốc tế, buộc ta phải chấp nhận theo các điều kiện của chúng. Với quan điểm, tư duy mới về nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc XHCN, Đảng và Nhà nước ta đã có những quyết sách cơ bản về đường lối quân sự, quốc phòng, chiến lược bảo vệ Tổ quốc phù hợp với sự thay đổi, phát triển của nhiệm vụ cách mạng và xu thế phát triển chung của thời đại. Đó là những yếu tố chủ yếu tác động trực tiếp và đặt ra nhiều vấn đề cần tiếp tục nghiên cứu nhằm hoàn thiện những phương pháp đấu tranh vũ trang truyền thống, bổ sung, phát triển nghệ thuật quân sự (NTQS) Việt Nam trong điều kiện hiện đại. Phạm vi bài viết này, chủ yếu bàn về NTQS trong chiến tranh nhân dân bảo vệ Tổ quốc.

Vấn đề đặt ra trước hết là, NTQS phải nghiên cứu, giải quyết tốt mối quan hệ giữa phòng tránh và đánh địch, tiêu diệt địch, bảo toàn lực lượng ta, bảo vệ các mục tiêu chiến lược. Phòng tránh và đánh địch là hai biện pháp rất quan trọng với mục đích cụ thể khác nhau, nhưng đều mang tính chủ động nhằm vào mục tiêu chung là đánh bại tiến công hỏa lực của địch. Trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, chúng ta đã thực hiện tốt biện pháp phòng tránh, triệt để sơ tán cho người và tài sản một cách có tổ chức từ trung ương đến địa phương, đặc biệt là ở các thành phố và khu vực trọng điểm. Do đó, Mỹ không thể sử dụng bom đạn để “đưa miền Bắc về thời kỳ đồ đá”; các hoạt động sản xuất, công tác, học tập vẫn được duy trì và phát triển, vẫn tiếp nhận và vận chuyển khối lượng lớn phương tiện vật chất và lực lượng để chi viện cho các chiến trường. Cùng với đó, các lực lượng phòng không ba thứ quân, nòng cốt là lực lượng phòng không quốc gia đã tổ chức nhiều đợt tác chiến tập trung, hiệp đồng bắn rơi hơn 4.000 máy bay hiện đại các loại của địch, bắt nhiều giặc lái, bảo vệ được mục tiêu quan trọng của đất nước, bảo tồn và phát triển lực lượng mọi mặt của hậu phương lớn miền Bắc.
Trong chiến tranh bảo vệ Tổ quốc ngày nay, có thể dự báo quân địch sẽ mở đầu chiến tranh bằng tiến công hỏa lực vào nhiều mục tiêu, nhất là các mục tiêu quân sự, chính trị, kinh tế quan trọng với cường độ cao, liên tục trong một thời gian dài, hòng làm lung lay ý chí của nhân dân Việt Nam, tạo điều kiện tương đối thuận lợi cho các hoạt động quân sự tiếp theo, nhất là cho tiến công trên bộ. Điều đó đòi hỏi NTQS phải giải quyết đúng đắn, sáng tạo vấn đề phòng tránh và đánh địch cả trong chiến lược, chiến dịch và chiến đấu nhằm bảo toàn lực lượng và tiềm lực quân sự, kinh tế của đất nước, nhất là trong thời kỳ đầu chiến tranh. Để phòng tránh bảo toàn được lực lượng, ngay từ thời bình phải thực hiện tốt việc kết hợp giữa kinh tế với quốc phòng, quốc phòng với kinh tế trong quá trình xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Trong từng vùng chiến lược và khu vực phòng thủ tỉnh (thành phố), khi xây dựng các khu kinh tế tập trung, khu công nghiệp cần tính đến các phương án sơ tán, phòng tránh trong chiến tranh và khả năng bảo vệ của các lực lượng phòng không. Mặt khác, phải có các biện pháp tích cực chống trinh sát của địch, tổ chức tốt ngụy trang nghi binh để đánh lừa, thu hút hỏa lực địch. Tăng cường huấn luyện, diễn tập, nâng cao trình độ sẵn sàng chiến đấu, khả năng cơ động của lực lượng vũ trang trong mọi điều kiện thời tiết ngày cũng như đêm, thực hiện cơ động nhanh, triển khai nhanh, chiến đấu nhanh, thu hồi nhanh. Trong đánh địch, cần nghiên cứu phân tích kỹ đặc điểm địa hình, mục tiêu bảo vệ, dự kiến chính xác thủ đoạn hoạt động của địch (số lượng, kiểu loại, tốc độ, độ cao, đường bay của máy bay, tên lửa hành trình, khu vực, mục tiêu đánh phá...), từ đó tổ chức các đơn vị phòng không ba thứ quân (phòng không quốc gia, phòng không lục quân, phòng không địa phương) thích hợp, bố trí bí mật, bất ngờ trên địa bàn cả nước và trong các khu vực phòng thủ tỉnh (thành phố). Trên cơ sở đó phát huy cao độ tính năng chiến thuật, khả năng chiến đấu của từng lực lượng, từng loại vũ khí, trang bị kỹ thuật; phối hợp chặt chẽ các trận đánh với nhau trong thế tác chiến hiệp đồng giữa các lực lượng, các loại vũ khí, tạo thành lưới lửa phòng không dày đặc, rộng khắp, nhiều tầng, nhiều lớp, thực hiện đánh địch từ xa đến gần, đánh địch ở mọi độ cao, mọi hướng, mọi thời điểm, tập trung vào khu vực, hướng trọng điểm; phát huy lối đánh hiểm, đánh phục kích, đón lõng; vận dụng linh hoạt các hình thức chiến thuật để chuyển hóa thế trận kịp thời; cơ động lực lượng linh hoạt, kịp thời, luôn tạo yếu tố bí mật, bất ngờ về hỏa lực và lực lượng, đánh lúc địch không ngờ tới, đánh nơi địch sơ hở nhất. Có cách đánh hợp lý, sáng tạo, chúng ta tin tưởng rằng với vũ khí, trang bị hiện có, với thế trận phòng không nhân dân vững chắc đã được chuẩn bị từ thời bình, nhân dân và các lực lượng vũ trang ta hoàn toàn đủ khả năng đánh bại tiến công hỏa lực bằng vũ khí công nghệ cao của địch.
Hai là, NTQS phải nghiên cứu, giải quyết tốt mối quan hệ giữa tác chiến phòng thủ, phòng ngự, phản công, tiến công trong quá trình đánh địch tiến công trên bộ. Qua nghiên cứu một số cuộc chiến tranh khu vực gần đây cho thấy, tiến công hỏa lực có thể gây cho đối phương những thiệt hại nghiêm trọng, thậm chí thiệt hại rất nặng nề, nhưng không thể trực tiếp giành được thắng lợi trên chiến trường nếu không tiến hành cuộc tiến công trên bộ bằng sức mạnh của lực lượng binh chủng hợp thành. Đối với Việt Nam, quy luật chiến tranh đó có thể được vận dụng; nghĩa là, để đạt được mục đích chiến tranh, sau giai đoạn tiến công hỏa lực đạt được kết quả nhất định, quân địch sẽ tiến hành tiến công trên bộ, tập trung lực lượng đột kích theo các trục đường là chính, kết hợp với đổ bộ đường không, đổ bộ đường biển đánh vào bên sườn, phía sau để giải quyết từng mục tiêu. Điều đó đòi hỏi NTQS của ta phải nghiên cứu, giải quyết tốt mối quan hệ giữa tác chiến phòng thủ, phòng ngự, phản công, tiến công trong quá trình chiến tranh.
Tác chiến phòng thủ là loại hình tác chiến mang tính đặc thù của Việt Nam, được tiến hành ngay từ đầu và suốt quá trình chiến tranh, do lực lượng tổng hợp của chiến tranh nhân dân tiến hành, bao gồm: lực lượng vũ trang ba thứ quân, lực lượng công an nhân dân, lực lượng của các bộ, ngành, đoàn thể từ trung ương đến địa phương và lực lượng đông đảo quần chúng nhân dân tiến hành, được tổ chức chặt chẽ theo một kế hoạch thống nhất. Lực lượng vũ trang ba thứ quân là lực lượng nòng cốt cho toàn dân đánh giặc, giữ vai trò quyết định tiêu hao, tiêu diệt các lực lượng quân sự của địch. Phương pháp tác chiến phòng thủ ở từng quy mô (chiến lược, chiến dịch, khu vực phòng thủ địa phương) có những cách thức và biện pháp sử dụng lực lượng đánh địch cụ thể, được quy định bởi mục đích, nhiệm vụ phòng thủ. Nhưng đều có đặc trưng là phải dựa vào thế và lực của khu vực phòng thủ địa phương đã được chuẩn bị từ thời bình và điều chỉnh, bổ sung hợp lý khi có chiến tranh, hình thành thế trận phòng thủ có lợi, hiểm hóc, linh hoạt, có chiều sâu để thực hiện căng kéo, chia cắt, kìm giữ, tạo thế xen kẽ với địch, vừa sát thương, tiêu hao sinh lực, phương tiện chiến tranh của địch, vừa gây căng thẳng, hoang mang về tâm lý cho quân địch đang trực tiếp tham chiến; bảo vệ được mục tiêu trọng yếu, bảo vệ dân, bảo vệ các cơ sở kinh tế-xã hội của đất nước và địa phương.
Tác chiến phòng thủ trong chiến tranh bảo vệ Tổ quốc có thể làm chậm tốc độ tiến công của địch, nhưng không thể ngăn chặn, nhất là chặn đứng tiến công của chúng, vì vậy không thể chỉ có phòng thủ, mà cần thiết và nhất thiết phải tiến hành các hoạt động tác chiến phòng ngự trong tác chiến phòng thủ. Tác chiến phòng ngự được tiến hành ở các hướng trọng điểm, các địa bàn chiến lược, các mục tiêu chủ yếu, quan trọng, chủ yếu do lực lượng vũ trang tiến hành (bộ đội địa phương, bộ đội chủ lực quân khu, một bộ phận bộ đội chủ lực của Bộ...) dưới dạng các trận đánh phòng ngự. Để đạt được mục đích, yêu cầu của tác chiến phòng ngự, phải tạo lập thế trận phòng ngự vững chắc, hiểm hóc, liên hoàn, có chiều sâu, đánh được địch tiến công từ nhiều hướng; tuân thủ theo những nguyên tắc cơ bản của tác chiến phòng ngự, như chỉ số về chính diện, chiều sâu, tổ chức sử dụng, bố trí lực lượng, xây dựng công sự trận địa, vật cản và vận dụng các biện pháp trong thực hành tác chiến phù hợp với từng cấp. Thực tế vận dụng trong huấn luyện, diễn tập ở một số đơn vị, nhà trường hiện nay cho thấy, vẫn còn nhận thức lẫn lộn giữa tác chiến phòng thủ và phòng ngự; quán triệt tư tưởng tích cực, chủ động, kiên quyết, vững chắc trong phòng ngự còn hạn chế. Cho nên khi xác định phạm vi khu vực phòng ngự cho từng cấp còn quá rộng; sử dụng lực lượng làm nhiệm vụ phòng ngự chốt giữ trận địa là chính, lực lượng cơ động tiến công còn ít, bố trí phân tán, không đủ khả năng xử trí các tình huống diễn ra trong quá trình tác chiến; chọn khu vực phòng ngự mới chỉ chú trọng đến khu vực mục tiêu cần bảo vệ, chưa tận dụng được thế thiên hiểm của địa hình để tổ chức, bố trí lực lượng bí mật, bất ngờ, có thế giữ, thế đánh linh hoạt, hạn chế được thương vong; các khu vực phòng ngự chưa gắn kết với thế trận phòng thủ chung của địa phương và trên từng hướng chiến trường... Những hạn chế này cần được nghiên cứu khắc phục trong thời gian tới.
Trên cơ sở kết quả và thế trận thuận lợi đã tạo lập được trong tác chiến phòng thủ và phòng ngự, khi điều kiện và thời cơ cho phép, thực hiện phản công chiến lược, do các binh đoàn cơ động của Bộ làm nòng cốt, kết hợp chặt chẽ với các lực lượng vũ trang trên địa bàn, các mặt đấu tranh khác, nhằm tiêu hao, tiêu diệt bộ phận, loại khỏi chiến đấu lực lượng quan trọng của địch, lần lượt đánh bại các biện pháp tác chiến lược của chúng, giành thế chủ động chiến lược, kết thúc thắng lợi chiến tranh. Điều kiện chuyển sang phản công là khi địch đã bị suy yếu một bước, nhịp độ tiến công đã giảm, lực lượng dự bị của chúng đang trong quá trình điều chỉnh. Ta nắm thời cơ tổ chức phản công trên một hoặc một số hướng chiến trường, tiêu diệt một bộ phận quan trọng của địch, chiếm lại một số địa bàn chiến lược, tạo ra thế và thời cơ cho tiến công chiến lược. Tiến công chiến lược lấy hoạt động tác chiến của binh đoàn cơ động chiến lược làm nòng cốt; diễn ra trên một hoặc một số chiến trường (hướng chiến lược), theo ý định và kế hoạch thống nhất của Bộ Tổng tư lệnh. Mục tiêu của tiến công chiến lược phải đạt được là tiêu diệt một bộ phận, loại khỏi chiến đấu lực lượng quan trọng trong các tập đoàn chiến lược của địch, chiếm lại các địa bàn, khu vực chiến lược xung yếu, làm thay đổi cục diện chiến trường hoặc có thể kết thúc chiến tranh bằng cuộc tổng tiến công (chiến dịch quyết chiến chiến lược). Phương pháp tiến công chiến lược là tiến hành các chiến dịch, các chiến dịch chiến lược, kết hợp chặt chẽ với các mặt đấu tranh khác, diễn ra ở các chiến trường trọng yếu, được mở ra đồng thời, gối đầu hoặc kế tiếp các loại hình tác chiến chiến lược phòng thủ, phản công. Để thực hiện được mục đích, yêu cầu tiến công (phản công) chiến lược, ngay từ thời bình phải nghiên cứu xây dựng và triển khai các kế hoạch phòng thủ đất nước, bao gồm: xây dựng kế hoạch chiến lược kết hợp kinh tế với quốc phòng, xây dựng nền quốc phòng toàn dân và thế trận chiến tranh nhân dân trên cả nước và trong từng địa phương; tổ chức phân chia chiến trường; xây dựng các tuyến phòng thủ, bố trí các lực lượng chiến lược, các căn cứ hậu phương (chiến lược) của toàn cuộc chiến tranh và trên từng chiến trường. Chăm lo xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân, xây dựng quân đội nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại. Cùng với việc nâng cao chất lượng tổng hợp, huấn luyện, sẵn sàng chiến đấu phải quan tâm về mặt tổ chức biên chế, trang bị kỹ thuật, bảo đảm hậu cần..., chuẩn bị điều kiện bảo đảm cho tác chiến của ba thứ quân, đặc biệt là các binh đoàn chủ lực cơ động, đáp ứng với sự phát triển của tình hình và yêu cầu rất cao của chiến tranh bảo vệ Tổ quốc.
 
Đại tá Phạm Trang
 

Ý kiến bạn đọc (0)