QPTD -Thứ Hai, 05/12/2011, 23:03 (GMT+7)
Mấy suy nghĩ về nâng cao hiệu quả công tác quốc phòng ở các bộ, ngành hiện nay
Nhiệm vụ quốc phòng được Đảng và Nhà nước ta xác định là một trong hai nhiệm vụ chiến lược của cách mạng Việt Nam. Ngày nay, đất nước ta trong tiến trình đẩy mạnh CNH, HĐH, trong bối cảnh có những thời cơ, thuận lợi lớn và những thách thức không nhỏ. Bởi vậy, mỗi bước đi, mỗi thành quả cùng những khó khăn, hạn chế của công tác quốc phòng đều ảnh hưởng trực tiếp, sâu xa đến sự nghiệp phát triển kinh tế-xã hội và bảo vệ đất nước; đồng thời sự phát triển vững mạnh của quốc phòng là nền tảng vững chắc, tạo môi trường thuận lợi cho phát triển kinh tế-xã hội và chịu sự chi phối của những phát triển đó. Những năm qua, cùng với những thay đổi lớn lao đang diễn ra trong xã hội, công cuộc củng cố nền quốc phòng toàn dân đã đạt được thành tựu rất quan trọng, đồng thời cũng đặt ra những vấn đề mới cần nghiên cứu, giải quyết cả ở cấp Trung ương và địa phương.

Để nâng cao hiệu quả công tác quốc phòng ở các bộ, ngành đáp ứng yêu cầu bảo vệ Tổ quốc trong thời kỳ mới, những năm qua Đảng và Nhà nước ta đã ban hành nhiều nghị quyết, bộ luật, pháp lệnh, nghị định, chỉ thị, thông tư... để lãnh đạo, chỉ đạo, hướng dẫn các bộ, ban, ngành, địa phương thực hiện tốt nhiệm vụ quốc phòng. Ngày 11 tháng 5 năm 2004, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 119/2004/NĐ-CP về công tác quốc phòng ở các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ và các địa phương, trong đó xác định rõ nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm và mối quan hệ của các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ (gọi tắt là các bộ, ngành) trong việc thực hiện công tác quốc phòng. Hệ thống văn bản trên đã tạo cơ sở, hành lang pháp lý quan trọng để các bộ, ngành, địa phương thực hiện tốt nhiệm vụ quốc phòng trước yêu cầu mới.

Qua nghiên cứu, kết hợp với báo cáo của các cơ quan chức năng và kết quả thanh tra ở một số bộ, ngành những năm gần đây chúng tôi thấy, công tác quốc phòng đã được các bộ, ngành, các tổ chức, đoàn thể quan tâm hơn trước. Chức năng quản lý nhà nước về quốc phòng được tăng cường và hoạt động có nền nếp. Các bộ, ngành đã phối hợp chặt chẽ với các cơ quan chức năng của Bộ Quốc phòng và các cơ quan quân sự địa phương tích cực chăm lo, xây dựng, củng cố, kiện toàn hệ thống quản lý, điều hành công tác quốc phòng trong phạm vi của từng bộ, ngành. Công tác giáo dục, bồi dưỡng kiến thức quốc phòng-an ninh cho các đối tượng được các bộ, ngành triển khai thực hiện nghiêm túc, bảo đảm đúng nội dung, chương trình và thời gian qui định. Riêng Bộ Y tế đã thực hiện bồi dưỡng kiến thức quốc phòng cho 100% cán bộ lãnh đạo Bộ, 53,3% lãnh đạo cấp Vụ, Cục, 26,55% lãnh đạo các đơn vị trực thuộc và 93,31% lãnh đạo các Sở Y tế... Qua các lớp bồi dưỡng kiến thức quốc phòng, nhiều cán bộ đã nâng cao được nhận thức về công tác quốc phòng, biết vận dụng kiến thức đã học vào thực tiễn lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện nhiệm vụ quốc phòng tại cơ quan, đơn vị đạt kết quả tốt. Trong tổ chức xây dựng lực lượng tự vệ, dự bị động viên, các bộ, ngành đã coi trọng nâng cao chất lượng tổng hợp, nhất là chất lượng về chính trị. Đến nay, lực lượng tự vệ trong các cơ quan, đơn vị thành viên đạt tỷ lệ 10-15% tổng số cán bộ, công nhân, viên chức và có tỷ lệ đảng viên, đoàn viên ngày càng cao. Lực lượng dự bị động viên được đăng ký, quản lý chặt chẽ và huấn luyện tốt, bảo đảm sẵn sàng động viên, sẵn sàng chiến đấu khi có lệnh. Bộ Công nghiệp đã chỉ đạo các Tổng công ty làm thí điểm cho Bộ Quốc phòng về động viên công nghiệp đạt kết quả tốt.  Cùng với tập trung chỉ đạo hoàn thành các chỉ tiêu kinh tế-xã hội của kế hoạch 5 năm (2001-2005), các bộ, ngành đã coi trọng gắn xây dựng các qui hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội của bộ, ngành với tăng cường xây dựng tiềm lực quốc phòng- an ninh trên từng địa bàn; chăm lo xây dựng, phát triển cơ sở hạ tầng ở đô thị, nông thôn, nhất là các địa bàn chiến lược, biên giới, hải đảo... Những nội dung về xây dựng khu vực phòng thủ tỉnh, thành phố được các bộ, ngành phối hợp triển khai  đầy đủ, đạt hiệu quả thiết thực. Các mặt công tác khác như công tác tuyển quân, công tác hậu phương quân đội và giải quyết tồn đọng sau chiến tranh... cũng được coi trọng. Những kết quả trên các mặt chủ yếu đó, đã góp phần làm chuyển biến một bước cơ bản về xây dựng nền quốc phòng toàn dân, tăng cường sức mạnh quốc phòng-an ninh, giữ vững ổn định chính trị, tạo môi trường hoà bình, ổn định để phát triển kinh tế-xã hội, củng cố quốc phòng-an ninh, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ lãnh thổ và chế độ XHCN.
Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đã đạt được, công tác quốc phòng ở các bộ, ngành còn bộc lộ những tồn tại, hạn chế. Việc chỉ đạo quán triệt các chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước về công tác quốc phòng còn triển khai chậm, biên pháp chưa đồng bộ, chưa ngang tầm đòi hỏi. Sự phối hợp chỉ đạo của một số bộ, ngành với địa phương trong nhiệm vụ kết hợp phát triển kinh tế-xã hội với tăng cường sức mạnh quốc phòng- an ninh trên các địa bàn chưa chặt chẽ và thường xuyên. Thực hiện chức năng quản lí nhà nước về quốc phòng ở một số bộ, ngành còn hạn chế, trong chỉ đạo, quản lý còn có mặt sơ hở. Việc tổ chức thành lập Ban chỉ huy quân sự (BCHQS) một số cơ quan, ban ngành ở Trung ương còn chậm; một số bộ, ngành bố trí, quản lý, sử dụng đội ngũ cán bộ, sĩ quan quân đội biệt phái và cán bộ chuyên trách, kiêm nhiệm công tác quốc phòng chưa ổn định, có nơi sắp xếp cán bộ phụ trách công tác này chưa đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ; vai trò tham mưu giúp lãnh đạo bộ, ngành còn nhiều hạn chế, chưa tương xứng nhiệm vụ được giao.
Từ thực tiễn thực hiện nhiệm vụ quốc phòng của các bộ, ngành cho thấy, vấn đề quan trọng đặt ra hiện nay là phải tổ chức học tập, quán triệt nghiêm túc đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về xây dựng nền quốc phòng toàn dân cho đội ngũ cán bộ, công nhân, viên chức, trước hết là cán bộ chủ trì các cấp. Trên cơ sở đó để mọi người nhận thức đúng, đầy đủ tầm quan trọng của nhiệm vụ củng cố quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc XHCN trong thời kỳ mới. Và bảo vệ Tổ quốc không chỉ là chuẩn bị phòng, chống chiến tranh xâm lược, bảo vệ độc lập, chủ quyền,  toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, mà còn phải bảo vệ chế độ XHCN, bảo vệ an ninh đất nước trên tất cả các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hoá, khoa học-công nghệ, đối ngoại... Nội dung quán triệt, trước hết phải tập trung vào đường lối, quan điểm của Đảng về quốc phòng và bảo vệ Tổ quốc theo tinh thần Nghị quyết Đại hội IX, đặc biệt là Nghị quyết Trương ương 8 (khoá IX); nắm vững và chấp hành nghiêm các luật, pháp lệnh, nghị định, quyết định của Nhà nước về nhiệm vụ quốc phòng-an ninh. Việc tổ chức quán triệt phải được triển khai thường xuyên, sâu rộng đến tận cơ sở, đến từng người, bằng những hình thức, biện pháp thiết thực. Có như vậy mới huy động được các tiềm lực và phát huy được sức mạnh tổng hợp của các cơ quan, đoàn thể, các đơn vị thành viên trong thực hiện nhiệm vụ quốc phòng. Đẩy mạnh công tác giáo dục quốc phòng cho các đối tượng; xây dựng qui chế  và bố trí sắp xếp hợp lý để cán bộ, trước hết là cán bộ chủ chốt các cấp được luân phiên đi bồi dưỡng kiến thức quốc phòng theo phân cấp tại các học viện, nhà trường của quân đội và hệ thống trường Đảng, trường hành chính và trường đoàn thể. Đồng thời chỉ đạo công tác giáo dục quốc phòng, phổ biến và giáo dục pháp luật cho cán bộ, công nhân, viên chức đi vào nền nếp và đạt hiệu quả thiết thực. Coi trọng việc kết hợp phát triển kinh tế-xã hội với tăng cường sức mạnh quốc phòng-an ninh. Việc kết hợp kinh tế với quốc phòng phải được thể hiện thông qua qui hoạch, kế hoạch của tất cả các cấp. Những năm tới, trong sự phát triển nhanh của đất nước, chắc chắn các bộ, ngành sẽ xây dựng nhiều dự án phát triển kinh tế với qui mô khác nhau. Vì vậy, ngay khi lập dự án, cần tính đến yếu tố kết hợp kinh tế với quốc phòng-an ninh, bảo đảm khi triển khai dự án vừa có hiệu quả về kinh tế, vừa bảo đảm yêu cầu về an ninh, quốc phòng. Để thực tốt yêu cầu này, các bộ, ngành cần có sự liên hệ chặt chẽ với Bộ Quốc phòng để thống nhất những vấn đề liên quan tới quốc phòng, an ninh, nhất là những dự án tại các khu kinh tế trọng điểm, các công trình quan trọng trên các địa bàn chiến lược cả trong nội địa và tuyến biên giới, hải đảo. 
Một vấn đề quan trọng, cấp bách nữa là các bộ, ngành  cần tập  trung xây dựng, củng cố, kiện toàn  bộ máy lãnh đạo, chỉ đạo, quản lý và điều hành công tác quốc phòng ngang tầm với nhiệm vụ quốc phòng-an ninh trong thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước. Công tác quốc phòng ở các bộ, ngành có đặc điểm riêng, cả thuận lợi và khó khăn; việc thực hiện trong thời gian qua đã có tiến triển đáng mừng, nhưng nếu so với các địa phương thì còn nhiều hạn chế. Sở dĩ như vậy là do ở các địa phương cơ chế lãnh đạo, điều hành nhiệm vụ quốc phòng ( được xác định trong Nghị quyết 02 của Bộ Chính trị, khoáVI)  vận hành có hiệu quả, phát huy được sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị  và sức mạnh tổng hợp của toàn dân. Còn ở các bộ, ngành, cơ chế này chưa rõ ràng, khó vận hành vì các bộ, ngành không có các tổ chức Đảng và cơ quan điều hành công tác quốc phòng theo hệ thống ngành dọc đến các đơn vị thành viên ở cơ sở. Để khắc phục tình trạng này, Bộ Công nghiệp và một số bộ, ngành khác đã tổ chức thành lập Ban chỉ đạo công tác quốc phòng, gồm một đồng chí lãnh đạo của bộ, ngành làm trưởng ban, lãnh đạo vụ Kế hoạch, vụ Tổ chức- Cán bộ làm phó ban và lãnh đạo một số vụ có liên quan làm uỷ viên; đồng chí phụ trách công tác quốc phòng hoặc kiêm nhiệm làm  thư ký thường trực giúp lãnh đạo bộ, ngành quản lý, chỉ đạo, điều hành công tác quốc phòng. Từ khi có Ban chỉ đạo công tác quốc phòng, việc lãnh đạo, chỉ đạo, quản lý, điều hành công tác quốc phòng ở những nơi đó rất thuận lợi, đạt hiệu quả cao. Rất tiếc mô hình này đến nay vẫn chưa được tổng kết, nhân rộng ra các bộ, ngành khác. Để củng cố bộ máy lãnh đạo, quản lý, điều hành công tác quốc phòng ở các bộ, ngành hiện nay, Bộ Quốc phòng và Bộ Nội vụ đã có Thông tư Liên tịch số 135/2005/BQP-BNV về tổ chức cán bộ làm công tác quốc phòng ở bộ, ngành và Công văn 768/BQP về thành lập BCHQS để giúp lãnh đạo các bộ, ngành quản lý, điều hành công tác quốc phòng của bộ, ngành mình đi vào hoạt động có nền nếp. Đến nay, hầu hết các bộ, ngành đã  kiện toàn được BCHQS các cấp, nhưng vẫn còn một số bộ, ngành chưa triển khai thực hiện. Vì vậy, thời gian tới cần tiếp tục củng cố, xây dựng, kiện toàn BCHQS của các cơ quan còn lại. Đồng thời tập trung củng cố, phát huy vai trò của BCHQS về các mặt, trọng tâm là xây dựng, hoàn thiện quy chế hoạt động của BCHQS các cơ quan bộ, ngành ở Trung ương. Chăm lo xây dựng, củng cố đội ngũ cán bộ phụ trách công tác quốc phòng ở các cơ quan, đơn vị có đủ năng lực, phẩm chất thực hiện tốt các nhiệm vụ quốc phòng, quân sự được giao. Đẩy mạnh hơn nữa sự phối hợp giữa Bộ Quốc phòng với các bộ, ngành trong quá trình tổ chức, điều hành, kịp thời xử lý những vấn đề vướng mắc, nảy sinh, nâng cao hiệu quả công tác quốc phòng ở các bộ, ngành. Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, giám  sát chặt chẽ việc triển khai thực hiện công tác quốc phòng ở các bộ, ngành. Qua đó, một mặt phát hiện những lệch lạc, vi phạm để uốn nắn kịp thời; mặt khác- quan trọng hơn- nghiên cứu, phân tích một cách đầy đủ, toàn diện tình hình, rút ra những kết luận, kiến nghị chính xác về quan điểm, tư tưởng chỉ đạo, chủ trương, biện pháp thực hiện để giúp lãnh đạo bộ, ngành quản lý, điều hành và thực hiện nghiêm chỉnh nhiệm vụ quốc phòng theo luật định.
 
Hải Đăng
 

Ý kiến bạn đọc (0)