QPTD -Chủ Nhật, 04/12/2011, 01:10 (GMT+7)
Lực lượng vũ trang nhân dân tham gia xây dựng cơ sở chính trị - xã hội trên vành đai biên giới phía tây của Tổ quốc

LTS: Trong công cuộc đổi mới, cùng với việc phấn đấu thực hiện tốt nhiệm vụ quân sự, quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc, lực lượng vũ trang nhân dân đã tham gia tích cực, có hiệu quả vào việc xây dựng cơ sở chính trị-xã hội ở các địa phương, nhất là trên các địa bàn chiến lược, trọng yếu, khó khăn. Để phản ánh một phần nhiệm vụ đó, trong 3 số (từ số 11/2007), Tạp chí Quốc phòng toàn dân giới thiệu cùng bạn đọc chùm bài: "Lực lượng vũ trang nhân dân tham gia xây dựng cơ sở chính trị-xã hội trên vành đai biên giới phía Tây của Tổ quốc" của nhóm tác giả Khắc Thường- Học Từ - Minh Sơn.

I. Vành đai Biên giới phía Tây: đặc điểm, thực trạng và chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước ta
 Biên giới phía Tây của Tổ quốc (từ Lai Châu đến Kiên Giang), dài 3.420,5 km, qua địa phận 18 tỉnh, 120 huyện, 252 xã; tiếp giáp với ba nước: Trung Quốc, Lào và Cam-pu-chia; nơi khởi đầu và tiếp nối nhiều trục đường huyết mạch của cả nước, có nhiều cửa khẩu quốc tế, quốc gia, nhiều đường buôn bán tiểu ngạch với các nước bạn trong khu vực và quốc tế. Đây là những vùng đất chứa đựng nhiều tiềm năng to lớn của các ngành kinh tế mũi nhọn như: khai khoáng, lâm nghiệp, thủy điện, xuất nhập khẩu; là nơi lưu giữ, phát huy nhiều giá trị văn hóa truyền thống đặc sắc của cộng đồng các dân tộc Việt Nam. Biên giới quốc gia nói chung, biên giới phía Tây Tổ quốc nói riêng có vai trò đặc biệt quan trọng về quốc phòng và an ninh. Trong suốt quá trình lịch sử dựng nước và giữ nước, cha ông ta luôn coi đây là “phên dậu” trấn giữ quốc gia và thường cử các hào trưởng, tù trưởng có uy tín đặc trách nhiệm vụ quản lý, bảo vệ các vùng biên ải, vừa giữ “hòa khí” với các nước láng giềng, vừa chủ động đối phó, ngăn chặn quân xâm lược từ xa. Khi tiến hành cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam, cả thực dân Pháp và đế quốc Mỹ đều tìm mọi cách chiếm lấy các địa bàn trọng yếu trên các tuyến biên giới phía Tây, đặc biệt là Tây Bắc, Tây Nguyên. Vùng cao nguyên Trung phần được các chiến lược gia quân sự Pháp và Mỹ coi là “mái nhà của Đông Dương”; “Ai chiếm được Tây Nguyên, sẽ làm chủ Đông Dương”... Trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, đế quốc Mỹ xâm lược, quân và dân ta cũng triệt để phát huy lợi thế của rừng núi, xây dựng các căn cứ địa kháng chiến; dựa vào hình sông, thế núi để nhân lên sức mạnh của chiến tranh nhân dân; lấy “rừng che bộ đội, rừng vây quân thù” góp phần tạo nên nghệ thuật quân sự Việt Nam “hết sức độc đáo”, chiến thắng kẻ thù. Trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc ngày nay, vị trí, ý nghĩa của vành đai biên giới phía Tây trên tất cả các lĩnh vực: kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh luôn được Đảng, Nhà nước và nhân dân ta đặc biệt coi trọng.
 Tuy nhiên, do điều kiện tự nhiên và lịch sử, hiện nay các địa bàn biên giới phía Tây nước ta còn rất nhiều khó khăn. Cấu tạo địa hình những vùng này rất phức tạp, thường bị chia cắt bởi núi cao, vực sâu, sông suối lớn, giao thông gặp nhiều trở ngại; khí hậu khắc nghiệt, thường xuyên xảy ra thiên tai, nhất là các vùng Tây Bắc, Trung bộ, Tây Nguyên. Tuy diện tích tự nhiên của địa bàn này chiếm tới gần 2/3 diện tích cả nước (217.781km2), nhưng dân số ở đây chỉ chiếm gần 1/3 (khoảng 25 triệu người), hơn nữa, lại phân bố không đều, có nơi chỉ 9-15 người/km2. Các địa bàn này là nơi cư trú của trên 75% đồng bào các dân tộc thiểu số. Tây Bắc có hơn 30 dân tộc thiểu số, trong đó chủ yếu là người Mông (khoảng 46,5 vạn người); Tây Bắc Trung Bộ có khoảng 10 dân tộc thiểu số, phần lớn là đồng bào dân tộc Vân Kiều, Pa Kô; Tây Nguyên có hơn 40 dân tộc thiểu số, trong đó khoảng 1,2 triệu người là các dân tộc thiểu số bản địa và khoảng 4 vạn người dân tộc thiểu số ở miền núi phía Bắc di cư vào; Tây Nam Bộ có gần 1,5 triệu người dân tộc thiểu số, chủ yếu là người Khơ-me và Hoa. Các dân tộc thiểu số bản địa phần lớn cư trú ở vùng sâu, vùng xa, giáp biên giới, đời sống kinh tế còn nhiều khó khăn; hộ nghèo (theo chuẩn mới) chiếm tỷ lệ cao (Tây Bắc 33,95%, Tây Bắc Trung Bộ 25,6%, Tây Nguyên 24,9%, Tây Nam Bộ 22%); trình độ sản xuất thấp kém (một số nơi vẫn còn tình trạng du canh, du cư); văn hóa, xã hội còn nhiều hạn chế (có thôn, bản, số người chưa biết đọc, biết viết chiếm tới 50%); nhiều nơi, phong tục, tập quán còn lạc hậu. Trong quá trình thực hiện kinh tế thị trường định hướng XHCN, mở cửa thông thương với các nước bạn, đi liền với những đổi thay tích cực trong đời sống của phần lớn đồng bào, nhiều tệ nạn xã hội có chiều hướng gia tăng. Tình trạng gian lận thương mại qua đường biên, vận chuyển hàng cấm (nhất là buôn bán ma túy), vượt biên trái pháp luật, nạn nghiện hút, cờ bạc,.. diễn ra khá trầm trọng, gây nhức nhối trong xã hội và ảnh hưởng không nhỏ tới an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội trên các địa bàn. Trong khi đó, hệ thống chính trị ở cơ sở, nhất là vùng sâu, vùng xa, giáp biên giới còn nhiều bất cập, yếu kém. Cấp ủy, chính quyền và các đoàn thể quần chúng ở nhiều địa phương chưa phát huy hết vai trò, trách nhiệm; năng lực lãnh đạo, chỉ đạo, quản lý kinh tế-xã hội, quốc phòng-an ninh và khả năng tuyên truyền, thuyết phục quần chúng chưa đáp ứng yêu cầu của tình hình; còn thiếu chủ động, sáng tạo, cá biệt còn ỷ lại, trông chờ vào cấp trên. Một trong những nguyên nhân dẫn đến tình trạng đó là do đội ngũ cán bộ, đảng viên người dân tộc thiểu số ở cơ sở còn thiếu về số lượng và yếu về chất lượng; trình độ quản lý nhà nước cũng như trình độ văn hóa còn thấp. Theo thống kê, đội ngũ cán bộ có trình độ đại học, cao đẳng ở Tây Bắc chiếm tỷ lệ 12,3%, Tây Bắc Trung Bộ 9,2%, Tây Nguyên 2,1%... Hiện vẫn còn 10 dân tộc thiểu số chưa có cán bộ có trình độ đại học; 5 dân tộc chưa có cán bộ có trình độ trung học phổ thông và trung học chuyên nghiệp... Tỷ lệ đảng viên là người dân tộc thiểu số so với dân số còn thấp (Tây Bắc: 0,3%; Tây Nguyên 0,21%...); có nơi còn “trắng” đảng viên, nhất là ở các xã giáp biên giới hoặc vùng núi cao,v.v. Trước tình hình đó, các thế lực thù địch triệt để lợi dụng những khó khăn để đẩy mạnh chống phá bằng chiến lược “diễn biến hòa bình”, bạo loạn lật đổ. Thông qua nhiều con đường, bằng nhiều thủ đoạn khác nhau, chúng ra sức tuyên truyền xuyên tạc đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước; thổi phồng những hạn chế, yếu kém của hệ thống chính trị ở cơ sở; từ đó lôi kéo một số người vượt biên trái pháp luật hoặc tụ tập, gây rối hòng tạo cớ can thiệp từ bên ngoài. ở Tây Bắc, chúng lừa bịp đồng bào Mông phá dỡ bàn thờ tổ tiên, đi theo “đạo Vàng Chứ”, yêu sách thành lập cái gọi là “Nhà nước Mông” tự trị. ở Tây Nguyên, chúng tìm cách khôi phục lực lượng Phun-rô phản động, ra sức kích động, gây mâu thuẫn giữa đồng bào các dân tộc thiểu số với người Kinh; đẩy mạnh tuyên truyền cái gọi là “Tin Lành Đề Ga”, kết hợp trong và ngoài nước kêu gọi thành lập “Nhà nước Đề Ga” độc lập. Chúng đã tổ chức, kích động một số phần tử quá khích gây ra hai cuộc bạo loạn chính trị vào tháng 2/2001 và tháng 4/2004. Mặt khác chúng ra sức tập hợp, lôi kéo những người nhẹ dạ, cả tin vượt biên trái pháp luật, hòng gây mất ổn định trên địa bàn, phục vụ cho mưu đồ của chúng. ở Tây Nam Bộ, chúng lợi dụng những vấn đề do lịch sử để lại nhằm khơi dậy những mâu thuẫn dân tộc để chống phá các chủ trương, chính sách đoàn kết giữa chính phủ và nhân dân hai nước láng giềng; tăng cường các hoạt động chia rẽ, lôi kéo đồng bào dân tộc Khơ-me tham gia cái gọi là “Tổ chức Khơ-me Crôm” và đòi “Tự trị”... Có thể nói rằng, sự chống phá quyết liệt của các thế lực thù địch trên các vùng biên giới phía Tây của Tổ quốc đã làm cho địa bàn này luôn tiềm ẩn nguy cơ mất ổn định chính trị-xã hội; ảnh hưởng trực tiếp đến việc thực hiện chủ trương, chính sách phát triển kinh tế, văn hóa - xã hội, củng cố quốc phòng - an ninh của Đảng và Nhà nước ta.
Các địa bàn biên giới phía Tây là một phần lãnh thổ thiêng liêng của Tổ quốc. Trong các cuộc kháng chiến trước đây, nhân dân các dân tộc thiểu số nơi đây đã cùng với nhân dân cả nước hy sinh biết bao xương máu mới giành được độc lập, tự do, giữ yên bờ cõi. Ngày nay, trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc XHCN, đồng bào ta vẫn một lòng theo Đảng xây dựng cuộc sống ấm no, hạnh phúc. Tuy nhiên, trước sự chống phá quyết liệt của các thế lực thù địch, chúng ta phải nâng cao hơn nữa tinh thần cảnh giác cách mạng, tập trung xây dựng các địa bàn này thật sự vững mạnh về mọi mặt. Đảng và Nhà nước ta khẳng định, phải chăm lo phát triển toàn diện chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, an ninh - quốc phòng trên địa bàn chiến lược biên giới; gắn tăng trưởng kinh tế với giải quyết các vấn đề xã hội, thực hiện tốt chính sách dân tộc; quan tâm phát triển, bồi dưỡng nguồn lực; chăm lo xây dựng đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số; giữ gìn và phát huy những giá trị, bản sắc văn hóa truyền thống các dân tộc thiểu số trong sự nghiệp phát triển chung của cộng đồng dân tộc Việt Nam. Thực hiện nhiệm vụ này là trách nhiệm chung của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân; của tất cả các cấp, các ngành và toàn bộ hệ thống chính trị.
Theo phương hướng đó, những năm qua, Đảng và Nhà nước ta đã có nhiều nghị quyết, chỉ thị, chương trình, thể hiện sự quan tâm ưu tiên phát triển kinh tế - xã hội, gắn với tăng cường quốc phòng-an ninh ở các vùng tập trung đồng bào các dân tộc thiểu số, nhất là các địa bàn chiến lược phía Tây của Tổ quốc; trong đó nhấn mạnh: “Giữ vững an ninh, quốc phòng ở vùng dân tộc và miền núi; kết hợp phát triển kinh tế-xã hội với đảm bảo an ninh, quốc phòng ở các địa bàn xung yếu, vùng sâu, vùng biên giới, ngăn chặn việc lợi dụng vấn đề dân tộc, tôn giáo để phá hoại khối đoàn kết giữa các dân tộc thiểu số, làm mất ổn định xã hội”. Chủ trương đó đã được cụ thể hóa bằng nhiều văn bản như: Nghị quyết số 22/NQ-TƯ ngày 27-11-1989 của Bộ Chính trị về một số chủ trương, chính sách lớn phát triển kinh tế-xã hội miền núi; Quyết định 135/1998/QĐ-TTg ngày 31-7-1998 của Thủ tướng Chính phủ về Phát triển kinh tế - xã hội các xã đặc biệt khó khăn vùng đồng bào dân tộc thiểu số, vùng sâu, vùng xa; Quyết định 277/2000/QĐ-TTg ngày 31-3-2000 của Thủ tướng Chính phủ về Đề án tổng thể quân đội tham gia xây dựng phát triển kinh tế-xã hội các xã đặc biệt khó khăn, vùng sâu, vùng xa gắn với xây dựng các khu quốc phòng an ninh trên địa bàn chiến lược, biên giới; Chương trình 135 về Xóa đói, giảm nghèo và giải quyết việc làm; Chương trình 327 về Chính sách phát triển rừng, bảo vệ môi trường sống miền núi; Quyết định 168/2001/QĐ-TTg, ngày 30-10-2001 về Định hướng dài hạn, kế hoạch 5 năm (2001-2005) và giải pháp cơ bản phát triển kinh tế-xã hội vùng Tây Nguyên; Quyết định 186/2001/QĐ/TTg ngày 7-2-2001 về Phát triển kinh tế-xã hội các tỉnh đặc biệt khó khăn ở vùng miền núi phía Bắc; Chỉ thị 173/2001/QĐ-TTg ngày 11-6-2001 về Phát triển kinh tế- xã hội vùng đồng bằng sông Cửu Long... Trên cơ sở đó, huy động mọi lực lượng của cả hệ thống chính trị, của các cấp, các ngành, tập trung nguồn lực đầu tư, tạo động lực giúp đỡ đồng bào dân tộc thiểu số đoàn kết, thống nhất, tích cực lao động sản xuất, phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, góp phần thực hiện có hiệu quả nhiệm vụ quân sự, quốc phòng, bảo vệ vững chắc biên giới của Tổ quốc.
 Những chủ trương, chính sách mà Đảng, Nhà nước ta ban hành đã và đang đi vào cuộc sống và ngày càng phát huy tác dụng. Đến nay, quyền bình đẳng giữa các dân tộc cơ bản được Hiến pháp xác định và thể hiện trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Đoàn kết giữa các dân tộc tiếp tục được củng cố. Nền kinh tế nhiều thành phần ở miền núi và vùng đồng bào các dân tộc thiểu số từng bước được hình thành và phát triển, cơ cấu kinh tế đang chuyển dịch theo hướng sản xuất hàng hóa. Việc triển khai thực hiện nhiều chính sách, chương trình, dự án đầu tư đã làm cho kết cấu hạ tầng kinh tế-xã hội và đời sống nhân dân ở nhiều vùng đồng bào dân tộc thiểu số được cải thiện rõ rệt. Công tác xóa đói, giảm nghèo đạt được những kết quả to lớn. Mặt bằng dân trí được nâng lên. Mục tiêu phổ cập giáo dục tiểu học và xóa mù chữ từng bước được thực hiện; hệ thống trường phổ thông dân tộc nội trú được hình thành từ Trung ương đến tỉnh, huyện và cụm xã. Văn hóa phát triển phong phú hơn; đời sống văn hóa của đồng bào được nâng cao một bước, văn hóa truyền thống được tôn trọng, giữ gìn và phát huy. Các loại bệnh dịch cơ bản được ngăn chặn và từng bước đẩy lùi; việc khám, chữa bệnh cho người nghèo ở vùng sâu, vùng xa được quan tâm. Hệ thống chính trị các vùng dân tộc và miền núi bước đầu được tăng cường và củng cố. Tình hình chính trị, trật tự xã hội cơ bản ổn định, an ninh, quốc phòng được giữ vững.
Hiện nay, đất nước ta đang bước vào thời kỳ đẩy mạnh CNH,HĐH, hội nhập sâu, rộng vào nền kinh tế quốc tế. Đảng và Nhà nước ta tiếp tục khẳng định, để xóa bỏ tận gốc nguyên nhân đói nghèo, lạc hậu, mất ổn định chính trị trên các địa bàn chiến lược biên giới thì phải kết hợp chặt chẽ giữa phát triển toàn diện kinh tế, văn hóa, xã hội với củng cố, tăng cường quốc phòng và an ninh vùng đồng bào các dân tộc thiểu số miền núi. Đại hội X của Đảng khẳng định: “Thực hiện tốt chiến lược phát triển kinh tế - xã hội ở miền núi, vùng sâu, vùng xa, vùng biên giới, vùng căn cứ cách mạng; làm tốt công tác định canh, định cư và xây dựng vùng kinh tế mới. Quy hoạch, phân bổ, sắp xếp lại dân cư, gắn phát triển kinh tế với bảo đảm an ninh, quốc phòng. Củng cố và nâng cao chất lượng hệ thống chính trị ở cơ sở vùng đồng bào dân tộc thiểu số; động viên, phát huy vai trò của những người tiêu biểu trong các dân tộc. Thực hiện chính sách ưu tiên trong đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, trí thức là người dân tộc thiểu số. Cán bộ công tác ở vùng dân tộc thiểu số và miền núi phải gần gũi, hiểu phong tục tập quán, tiếng nói của đồng bào dân tộc, làm tốt công tác dân vận”. Cùng với đó, phải rà soát, bổ sung, điều chỉnh, hoàn thiện các chính sách phát triển kinh tế-xã hội vùng dân tộc và miền núi; nghiên cứu, ban hành các chính sách mới đáp ứng sự phát triển của từng vùng trong tình hình mới. Nhà nước và các địa phương cần tiếp tục phối hợp để huy động nhiều nguồn lực cho đầu tư, phát triển, giúp đỡ vùng dân tộc, miền núi; ưu tiên xóa đói, giảm nghèo, phát triển nhanh kinh tế-xã hội, giải quyết những khó khăn, bức xúc của đồng bào, nhất là các xã đặc biệt khó khăn. Đây là quyết tâm, mục tiêu rất lớn của Đảng và Nhà nước ta, đòi hỏi sự nỗ lực tham gia của mọi lực lượng trong hệ thống chính trị, trong đó lực lượng vũ trang nhân dân đóng vai trò hết sức quan trọng.
Khắc Thường – Học Từ – Minh Sơn
(Số sau: II – Nội dung, giải pháp chủ yếu và kết quả bước đầu)
 

Ý kiến bạn đọc (0)