QPTD -Chủ Nhật, 04/12/2011, 01:02 (GMT+7)
Lào Cai đẩy mạnh phát triển kinh tế –xã hội, tăng cường quốc phòng - an ninh, đối ngoại trong tình hình mới
Lào Cai là tỉnh vùng cao, biên giới thuộc địa bàn Tây Bắc Bắc Bộ, là “cầu nối” trên hành lang kinh tế Côn Minh (Trung Quốc) – Lào Cai – Hà Nội – Hải Phòng, có vị trí chiến lược quan trọng trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Thực hiện đường lối đổi mới của Đảng, những năm qua, Đảng bộ, nhân dân các dân tộc và lực lượng vũ trang (LLVT) Lào Cai đã phát huy nội lực, đoàn kết, sáng tạo, vượt qua mọi khó khăn, thách thức, không ngừng vươn lên và đạt những thành tựu hết sức quan trọng trên các lĩnh vực. Kinh tế tăng trưởng khá. Năm 2006, GDP tăng 13%, năm 2007 ước đạt 14%. GDP bình quân đầu người năm 2006 đạt 5,8 triệu đồng; năm 2007 ước đạt 6,5 triệu đồng. Thu ngân sách của Tỉnh chín tháng đầu năm đạt 930 tỷ đồng, ước tính cả năm 2007 đạt 1.200 tỷ đồng. Chính trị, xã hội ổn định, văn hoá phát triển, quốc phòng-an ninh (QP-AN) được củng cố. Quan hệ đối ngoại được mở rộng (đến 12- 2006, cùng phía bạn Trung Quốc, đã cắm đươợc 110/ 124 khối cột mốc, chiếm 88,7% khối cột mốc phải cắm, trên tuyến biên giới dài 203,5 km). Đời sống vật chất, tinh thần của đồng bào các dân tộc được cải thiện rõ rệt. Nhân dân phấn khởi, tin tưởng vào Đảng, chế độ, chính quyền địa phương, tích cực tham gia xây dựng và bảo vệ quê hương, đất nước.

Những kết quả đạt được có ý nghĩa hết sức quan trọng, tạo động lực mới để Tỉnh tiếp tục đẩy mạnh công cuộc đổi mới, CNH, HĐH trong thời gian tới. Tuy nhiên, trong mặt bằng chung của cả nước, Lào Cai vẫn là một tỉnh nghèo. Tốc độ tăng trưởng kinh tế và các mặt khác chưa tương xứng với tiềm năng; nhiều thế mạnh chưa được đầu tư, khai thác hiệu quả. Hạ tầng cơ sở tuy có nhiều cải thiện, nhưng còn thấp, kém. Công tác xã hội hoá giáo dục, y tế, văn hoá còn hạn chế. Đời sống nhân dân các dân tộc còn nhiều khó khăn. Công tác QP-AN có mặt chưa đáp ứng được yêu cầu tình hình mới. Các hoạt động vi phạm pháp luật vẫn diễn biến phức tạp...
Đánh giá đúng tình hình, đặc điểm, nhiệm vụ của Tỉnh trong thời kỳ mới, Đại hội đại biểu Đảng bộ Tỉnh Lào Cai khoá XIII đã đề ra mục tiêu tiếp tục đổi mới toàn diện, đẩy mạnh CNH, HĐH, xây dựng Tỉnh tiến nhanh, tiến vững chắc trên tất cả các mặt, phấn đấu đến năm 2010 cơ bản thoát khỏi tỉnh nghèo; năm 2020 là tỉnh có trình độ phát triển trong vùng trung du miền núi Bắc Bộ và vào loại khá của cả nước. Đại hội cũng khẳng định, nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của Tỉnh trong giai đoạn tới là tập trung phát triển KT-XH, xây dựng Đảng bộ trong sạch, vững mạnh, tăng cường QP-AN, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới. Để thực hiện thắng lợi mục tiêu, nhiệm vụ đó, Tỉnh đẩy mạnh triển khai thực hiện 7 chương trình công tác trọng tâm, với 29 đề án, kế hoạch, nghị quyết, chuyên đề và 7 chương trình hướng về cơ sở của Ban Chấp hành Đảng bộ Tỉnh khoá XIII đã đề ra, trên cơ sở điều chỉnh và bổ sung cho phù hợp và triển khai các đề án cụ thể đối với từng ngành, từng địa phương. Cụ thể là, trong phát triển KT-XH, Tỉnh tập trung phát huy các tiềm năng, thế mạnh, tranh thủ tối đa các nguồn lực từ bên ngoài cho đầu tư phát triển, phấn đấu đạt tốc độ tăng trưởng GDP hằng năm 13%, GDP bình quân đầu người đạt 10,43 triệu đồng/ năm. Đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông, lâm nghiệp - công nghiệp - du lịch, dịch vụ; từng bước thực hiện CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn. Trong nông nghiệp, tập trung phát triển các vùng chuyên canh sản xuất hàng hoá; chăn nuôi gia súc, gia cầm và thuỷ sản theo hướng công nghiệp. 
Tăng cường đầu tư tạo bước phát triển đột phá trong công nghiệp, góp phần quan trọng chuyển dịch cơ cấu kinh tế và tăng nguồn thu ngân sách của Tỉnh. Chú trọng phát triển các ngành công nghiệp thế mạnh; cải tiến cơ chế chính sách, môi trường đầu tư, kinh doanh, thu hút đầu tư, phát triển các khu công nghiệp (KCN), khu thương mại (KTM) hiện đại. Trước mắt, tập trung cho các dự án trọng điểm, KCN Tằng Loỏng, KCN Bắc Duyên Hải, Đông Phố Mới và KTM Kim Thành, KTM cửa khẩu quốc tế Lào Cai, cửa khẩu quốc gia Mường Khương. Tập trung phát triển kinh tế cửa khẩu, các loại hình du lịch. Xây dựng thương hiệu “du lịch Sa Pa”; gắn du lịch với giữ gìn và phát huy bản sắc văn hoá, truyền thống lịch sử của các dân tộc anh em và của Tỉnh.
Nâng cao chất lượng, hiệu quả giáo dục-đào tạo, phấn đấu đến cuối năm 2007, Tỉnh đạt chuẩn về phổ cập giáo dục trung học cơ sở. Nâng cao chất lượng đào tạo nguồn nhân lực, ưu tiên đào tạo cán bộ người dân tộc thiểu số, đào tạo nguồn nhân lực có chất lượng, công nhân lành nghề. Tập trung đầu tư củng cố, nâng cao chất lượng hệ thống y tế; đẩy mạnh xã hội hoá công tác bảo vệ và chăm sóc sức khoẻ nhân dân, nhất là sức khoẻ bà mẹ, trẻ em, đồng bào vùng dân tộc thiểu số, vùng cao, biên giới. Nâng cao hiệu quả hoạt động của hệ thống y tế dự phòng, kiểm dịch, phòng, chống các loại dịch bệnh, nhất là các bệnh cúm gia cầm, lở mồm, long móng, bảo đảm vệ sinh an toàn thực phẩm.
Cùng với đẩy mạnh phát triển KT-XH, Tỉnh cũng tập trung tăng cường  QP-AN, xây dựng nền quốc phòng toàn dân (QPTD), thế trận QPTD gắn với thế trận an ninh nhân dân (ANND), thế trận biên phòng toàn dân (BPTD), giữ vững an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội, bảo vệ vững chắc chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ biên giới quốc gia. Trước hết, tiếp tục đẩy mạnh và nâng cao chất lượng công tác giáo dục quốc phòng (GDQP) toàn dân, nhất là bồi dưỡng kiến thức QP-AN cho đội ngũ cán bộ chủ chốt các cấp, các ngành, GDQP cho học sinh, sinh viên và toàn dân. Qua đó, nâng cao nhận thức, ý thức, trách nhiệm của đội ngũ cán bộ, đảng viên và toàn dân trong quán triệt và triển khai thực hiện các chỉ thị, nghị quyết của Đảng, Nhà nước, Đảng uỷ, Bộ Tư lệnh Quân khu 2, Tỉnh uỷ, Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân (UBND) Tỉnh về nhiệm vụ quốc phòng-quân sự (QP-QS), về kết hợp phát triển KT-XH với tăng cường QP-AN, đặc biệt là nghị quyết Trung ương 8 (khoá IX) về chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới; Nghị quyết 02/BCT của Bộ Chính trị nhằm tăng cường sự lãnh đạo, điều hành của cấp uỷ, chính quyền các cấp đối với nhiệm vụ QP-QS địa phương; Chỉ thị số 58/TTg của Thủ tướng Chính phủ về tăng cường xây dựng cơ sở xã, phường vững mạnh toàn diện, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ QP-AN trong tình hình mới. Tập trung hoàn thiện cơ chế lãnh đạo, quản lý công tác QP-QS địa phương; trong đó, đặc biệt chú trọng kiện toàn tổ chức đảng ở cơ sở, phấn đấu đến 2010, 100% xã, phường, thị trấn có đảng bộ; 70% thôn, bản có tổ chức đảng. Đồng thời, nâng cao năng lực, hiệu quả lãnh đạo, quản lý, điều hành của cấp uỷ, chính quyền các cấp, vai trò tham mưu, tổ chức thực hiện nhiệm vụ của cơ quan quân sự, các LLVT, vai trò của Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể quần chúng, nhất là Đoàn Thanh niên, Hội Phụ nữ, Hội Cựu chiến binh đối với nhiệm vụ QP-QS địa phương. Chăm lo xây dựng cơ sở chính trị vững mạnh toàn diện gắn với xây dựng xã, phường, thôn, bản an toàn, làm chủ, nhất là ở địa bàn trọng điểm, chiến lược, miền núi, vùng cao, biên giới... Bảo đảm dân chủ ở địa phương, quyền làm chủ của nhân dân, củng cố “thế trận lòng dân”, phát huy sức mạnh của khối đoàn kết các dân tộc anh em, của cả hệ thống chính trị trong việc thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, kiên quyết làm thất bại âm mưu, thủ đoạn “diễn biến hoà bình”, bạo loạn lật đổ và các hoạt động lợi dụng vấn đề dân tộc, tôn giáo để chống phá, hòng gây mất ổn định chính trị, trật tự, an toàn xã hội, an ninh biên giới của các thế lực thù địch, phản động.
Tăng cường chỉ đạo công tác xây dựng khu vực phòng thủ (KVPT) tỉnh, huyện, thành phố theo hướng “cơ bản, liên hoàn, vững chắc”, tập trung nâng cao chất lượng, hiệu quả huấn luyện, diễn tập theo các kế hoạch, phương án phòng thủ khu vực đã được phê duyệt, đáp ứng yêu cầu “thiết thực, hiệu quả, an toàn, tiết kiệm”. Năm 2006, Tỉnh đã tổ chức diễn tập KVPT tỉnh đạt kết quả xuất sắc; chỉ đạo huyện Bảo Thắng diễn tập phòng chống bão lụt (PCBL), huyện Bắc Hà diễn tập phòng chống cháy rừng, bảo vệ rừng (PCCR-BVR), diễn tập chiến đấu trị an cho 26 xã, phường trọng điểm, 2 cụm tác chiến biên phòng, 1 cụm an toàn làm chủ sẵn sàng chiến đấu cao của huyện Bảo Yên..., kết quả đều đạt khá, giỏi. Qua diễn tập, năng lực, trình độ lãnh đạo, chỉ huy, tổ chức hiệp đồng tác chiến của cán bộ các cấp được nâng lên rõ rệt. Thời gian tới, mỗi năm, Tỉnh sẽ chỉ đạo diễn tập kế hoạch A, kế hoạch PCBL, PCCR-BVR: 1 huyện. Các huyện, thành phố luyện tập và chỉ đạo diễn tập kế hoạch chiến đấu trị an 2 đến 3 xã; kế hoạch tác chiến biên phòng 1 cụm; nâng cao khả năng phối hợp, xử trí tình huống của các thành phần trong cơ chế. Tăng cường kiểm tra, nắm chắc tình hình, kịp thời điều chỉnh, bổ sung các kế hoạch, phương án tác chiến phòng thủ, động viên QP, phù hợp với Quy hoạch tổng thể phát triển KT-XH, bảo đảm QP-AN và đối ngoại, Đề án “nâng cao chất lượng xây dựng KVPT tỉnh, huyện, thành phố trên địa bàn tỉnh Lào Cai” của Tỉnh uỷ và UBND Tỉnh. Làm tốt công tác quy hoạch và quản lý đất, các công trình QP-AN, sử dụng hiệu quả nguồn ngân sách để xây dựng và hoàn thiện các công trình phòng thủ, nhất là các công trình chiến đấu, như sở chỉ huy, trận địa chiến đấu, khu hậu cần, kỹ thuật, hệ thống đường giao thông, sân bay, kho tàng, bến bãi... Chỉ đạo và tổ chức chặt chẽ việc phối hợp các lực lượng, nhất là quân đội, công an, biên phòng làm nòng cốt cho toàn dân trong quản lý, bảo vệ địa bàn, khu vực biên giới; tích cực, chủ động xây dựng, hoàn thiện các phương án, kế hoạch hiệp đồng, phối hợp xử lý hiệu quả các tình huống về QP-AN, đối ngoại, giữ vững an ninh chính trị, an ninh biên giới, trật tự, an toàn xã hội ở địa phương, cơ sở.
Chăm lo xây dựng LLVT địa phương cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, thực sự là lực lượng chính trị tin cậy, trung thành của cấp uỷ, chính quyền và nhân dân, có chất lượng tổng hợp và sức mạnh chiến đấu cao, làm nòng cốt trong xây dựng nền QPTD, thế trận QPTD gắn với thế trận ANND, thế trận BPTD của Tỉnh. Phát huy vai trò tích cực của LLVT trong phát triển KT-XH, nhất là trong xây dựng, củng cố tổ chức đảng, chính quyền, xây dựng môi trường văn hoá, tham gia các hoạt động xã hội, chăm sóc y tế, xóa đói, giảm nghèo, phòng chống thiên tai, bảo vệ môi trường, cứu hộ cứu nạn..., ở địa phương, cơ sở.
Đẩy mạnh công tác đối ngoại theo đúng chủ trương, chính sách đối ngoại của Đảng, của Tỉnh uỷ, chú trọng củng cố, phát triển toàn diện quan hệ truyền thống với tỉnh Vân Nam (Trung Quốc), vùng A-ki-ta-nhơ (Pháp) và mở rộng quan hệ hợp tác với các nơước, các vùng phù hợp với điều kiện và khả năng của Tỉnh, góp phần tạo dựng môi trường và các điều kiện quốc tế thuận lợi cho Tỉnh phát triển KT-XH, củng cố QP-AN, xây dựng biên giới quốc gia hoà bình, hợp tác và phát triển.
Bùi Quang Vinh
Ủy viên BCH TƯ Đảng
Bí thư Tỉnh ủy
 

Ý kiến bạn đọc (0)