Thứ Bảy, 23/11/2024, 10:22 (GMT+7)
Ấn phẩm tạp chí in
Kiên Giang nằm ở cực Nam của Tổ quốc, có 56 km đường biên giới tiếp giáp với Cămpuchia; quản lý vùng biển rộng 63.000 km2 với 140 đảo nổi (trong đó, 43 đảo có dân thuộc hai huyện Phú Quốc và Kiên Hải). Với điều kiện địa lý đó, Kiên Giang có vị trí chiến lược rất quan trọng của vùng đồng bằng sông Cửu Long và cả nước trong thời kỳ chiến tranh, cũng như trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Đảng bộ, chính quyền, lực lượng vũ trang (LLVT) và nhân dân Kiên Giang có truyền thống đấu tranh cách mạng kiên cường trong các cuộc kháng chiến giải phóng dân tộc, bảo vệ biên giới Tây Nam. LLVT Kiên Giang và 8 huyện (thị xã), 35 xã (phường, thị trấn), 23 cá nhân đã được Nhà nước phong tặng danh hiệu Anh hùng LLVT nhân dân. Tỉnh có 456 Bà mẹ Việt Nam Anh hùng.
Ngày nay, Kiên Giang là một trong những địa bàn trọng điểm chống phá bằng chiến lược “Diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch. Trên tuyến biên giới, các tổ chức phản động người Việt lưu vong và Khơmer Crôm lén lút tổ chức xây dựng lực lượng, tăng cường các hoạt động lôi kéo, kích động đồng bào, chia rẽ khối đoàn kết các dân tộc, truyền đạo trái pháp luật. Ở vùng biển, tàu thuyền nước ngoài xâm phạm hải phận, đánh bắt trộm hải sản, buôn bán trái phép diễn ra thường xuyên. Trong nội địa, tình hình an ninh, trật tự ở một số nơi diễn biến phức tạp, nhất là tranh chấp đất đai, giải phóng mặt bằng, tai nạn giao thông, tệ nạn xã hội; đó là chưa kể, thiên tai, bão lũ, cháy rừng xẩy ra bất thường, gây hậu quả khó lường...
Nhận thức rõ điều đó và được sự quan tâm chỉ đạo của Đảng ủy, Bộ tư lệnh Quân khu 9, cấp ủy, chính quyền các cấp của Kiên Giang thường xuyên chăm lo xây dựng LLVT vững mạnh cả về chính trị, tư tưởng, tổ chức, có trình độ sẵn sàng chiến đấu (SSCĐ) cao, đủ khả năng làm nòng cốt xây dựng nền quốc phòng toàn dân (QPTD), thế trận QPTD, gắn với thế trận an ninh nhân dân vững chắc mà then chốt là khu vực phòng thủ; tạo cơ sở để thực hiện thắng lợi nhiệm vụ quốc phòng, quân sự (QP,QS) địa phương, bảo vệ vững chắc địa bàn, góp phần giữ vững an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội ở địa phương, cơ sở.
Vấn đề quan trọng hàng đầu là Tỉnh tập trung xây dựng Bộ đội địa phương “cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại”, có chất lượng tổng hợp ngày càng cao, trước hết là chất lượng chính trị, sức mạnh chiến đấu, trình độ SSCĐ. Quán triệt và triển khai thực hiện Nghị quyết số 294-NQ/ĐU của Thường vụ Đảng ủy Quân khu 9 về tổ chức LLVT (2006-2010), Tỉnh tiếp tục rà soát, kiện toàn tổ chức, biên chế cơ quan, đơn vị theo quy định, phù hợp với nhiệm vụ QP,QS địa phương, của từng địa bàn. Trong đó, tập trung xây dựng cơ quan quân sự các cấp vững mạnh toàn diện, trước hết là Bộ chỉ huy Quân sự (BCHQS) Tỉnh, Ban Chỉ huy Quân sự các huyện biên giới, đảo, đủ khả năng làm tham mưu cho cấp ủy, chính quyền cùng cấp lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện nhiệm vụ QP,QS địa phương; đồng thời, chỉ đạo tổ chức thực hiện thắng lợi nhiệm vụ được giao trong mọi tình huống. Tập trung nguồn lực, nhất là đội ngũ cán bộ, giáo viên cho trường Quân sự Tỉnh để bảo đảm có đủ khả năng hoàn thành nhiệm vụ trong tình hình mới, nâng cao chất lượng đào tạo Chỉ huy trưởng Quân sự xã, phường, thị trấn; bồi dưỡng kiến thức quốc phòng- an ninh cho cán bộ chủ chốt (đối tượng 3). Kiện toàn tổ chức, biên chế đơn vị bộ binh T.93 của Tỉnh, thành lập phân đội bộ binh các huyện biên giới (Hà Tiên, Kiên Lương); tiếp nhận và đưa 6 đội công tác tham gia xây dựng cơ sở chính trị, vận động quần chúng ở vùng sâu, vùng xa, biên giới. Chú trọng xây dựng đội ngũ cán bộ vững mạnh, cơ cấu hợp lý, có năng lực toàn diện, trước hết là bản lĩnh chính trị, trình độ chỉ huy, tham mưu, có sức khỏe và độ tuổi phù hợp, đáp ứng yêu cầu cả trước mắt và lâu dài. Thường xuyên rà soát, bổ sung quy hoạch, có kế hoạch cử đi đào tạo, bồi dưỡng ở các trường trong và ngoài quân đội; thực hiện luân chuyển cán bộ; phối hợp công tác tổ chức và công tác chính sách, tạo điều kiện cho cán bộ yên tâm công tác, hoàn thành tốt chức trách, nhiệm vụ được giao. Cùng với đó, tăng cường công tác giáo dục chính trị, tư tưởng, làm cho cán bộ, chiến sĩ có bản lĩnh chính trị vững vàng, tin tưởng vào công cuộc đổi mới do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo; nhận thức đúng tình hình nhiệm vụ, xác định rõ trách nhiệm, nghĩa vụ của cá nhân trong từng đơn vị, nâng cao ý thức chấp hành pháp luật Nhà nước, kỷ luật Quân đội; nâng cao tinh thần cảnh giác với mọi âm mưu, thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch. Đẩy mạnh công tác huấn luyện theo phương châm “cơ bản, thiết thực, vững chắc”; coi trọng huấn luyện đồng bộ, chuyên sâu, sát thực tế địa bàn và nhiệm vụ từng đơn vị, phù hợp với vũ khí, trang bị trong biên chế và khi được tăng cường, phù hợp với nghệ thuật quân sự, kinh nghiệm chiến đấu trên địa bàn. Tăng cường huấn luyện đêm, huấn luyện phòng tránh, đánh trả địch tiến công bằng vũ khí công nghệ cao, phòng chống bạo loạn lật đổ. Tích cực đổi mới, nâng cao chất lượng diễn tập chiến thuật có bắn đạn thật, diễn tập vòng tổng hợp của các đơn vị thường trực; diễn tập chiến đấu trị an ở cấp xã (phường, thị trấn); diễn tập chỉ huy cơ quan và diễn tập tác chiến khu vực phòng thủ đối với cấp huyện (thị xã, thành phố). Gắn huấn luyện với xây dựng nền nếp chính quy, rèn luyện kỷ luật, góp phần xây dựng cơ quan, đơn vị vững mạnh toàn diện, hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao trong mọi tình huống.
Đi đôi với xây dựng lực lượng thường trực, Tỉnh chú trọng xây dựng lực lượng dân quân tự vệ (DQTV) và lực lượng dự bị động viên (DBĐV) vững mạnh, thực sự là lực lượng nòng cốt bảo vệ Đảng, chính quyền, giữ vững an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội ở cơ sở. Ngay sau khi có Chỉ thị 16-CT/TW ngày 05-10-2002 của Ban Bí thư Trung ương Đảng “Về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với lực lượng DQTV và lực lượng DBĐV trong tình hình mới”, BCHQS Tỉnh đã làm tham mưu cho Tỉnh ủy ra Nghị quyết chuyên đề số 06-NQ/TU lãnh đạo xây dựng lực lượng DQTV, DBĐV trên địa bàn. Đồng thời, tăng cường chỉ đạo các cơ quan, đơn vị tổ chức thực hiện Chỉ thị 16- CT/TW và Nghị quyết 06-NQ/TU nói trên đạt kết quả thiết thực.
Lực lượng DQTV được xây dựng “vững mạnh, rộng khắp”, đến nay số lượng đạt 1,78% so với số dân; riêng các huyện biên giới, hải đảo đạt từ 2,5 - 3,5% (trong đó, dân quân đạt 1,65% so với số dân, tự vệ đạt 20,57% so với cán bộ, công chức). Chất lượng tổng hợp ngày càng cao, trước hết là chất lượng chính trị, với tỷ lệ đảng viên đạt 6,82% (tăng 3,42% so với năm 2003). Toàn Tỉnh đã thành lập được 114 chi bộ (tổ đảng) quân sự, do bí thư cấp ủy trực tiếp làm bí thư chi bộ. Cơ cấu thành phần lực lượng (dân quân thường trực, dân quân cơ động, dân quân tại chỗ, DQTV biển, DQTV binh chủng) được bảo đảm cân đối. Tuy nhiên, do đặc thù của Kiên Giang có vùng biển, đảo rộng nên Tỉnh chú trọng xây dựng DQTV biển có số lượng đạt 23,90% so với toàn lực lượng DQTV. Nhìn chung, lực lượng DQTV biển hoạt động có hiệu quả, góp phần bảo vệ an ninh, trật tự trên vùng biển Kiên Giang. Riêng năm 2007, được sự chỉ đạo của Bộ Tổng Tham mưu, Tỉnh đã xây dựng điểm một trung đội dân quân biển, lấy tàu thuyền các hộ cá thể hoạt động trên cùng một ngư trường để tổ chức, sau khi rút kinh nghiệm sẽ nhân thành diện rộng. Cùng với đó, BCHQS Tỉnh đã làm tham mưu giúp Tỉnh ủy ra Chỉ thị 02-CT/TU, Uỷ ban nhân dân Tỉnh ban hành Quyết định số 2293/QĐ-UBND tỉnh, cụ thể hóa Chỉ thị số 34/CT-BQP của Bộ trưởng Bộ Quốc phòng về “Đào tạo chỉ huy trưởng Quân sự xã, phường, thị trấn”. Đến nay, Kiên Giang đã tổ chức đào tạo được 2 khóa (từ 16-18 tháng) cho 256 đồng chí, đạt trình độ trung cấp quân sự cơ sở và trung cấp chính trị. Sau tốt nghiệp, 100% học viên được sắp xếp, bố trí đúng vị trí và đã phát huy tốt kiến thức, trách nhiệm trong lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện công tác quân sự ở cơ sở, nhiều đồng chí đã được tín nhiệm giữ các chức vụ cao hơn.
Hằng năm, cơ quan quân sự các cấp đều tổ chức tập huấn cán bộ, huấn luyện quân sự, giáo dục chính trị theo kế hoạch, đạt tỷ lệ khoảng 78% tổng số lực lượng; đồng thời, phối hợp với lực lượng công an diễn tập tác chiến trị an và xử lý một số tình huống về phòng chống bão, lũ, cháy rừng cho từ 25-30% đầu mối đơn vị. Qua đó, từng bước nâng cao năng lực chỉ huy, tham mưu của đội ngũ cán bộ, khả năng tác chiến của chiến sĩ trong các tình huống, góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động của lực lượng.
Điểm quan trọng nữa là, cấp ủy, chính quyền các cấp rất quan tâm bảo đảm chế độ, chính sách của lực lượng DQTV. Uỷ ban nhân dân Tỉnh đã ban hành quyết định chi tiền ăn 35.000 đồng/ người/ ngày cho DQTV trong thời gian tham gia tập huấn, huấn luyện, diễn tập; trợ cấp cho dân quân thường trực ở các chốt của xã biên giới 540.000 đồng/ người/ tháng; chi trả phụ cấp trách nhiệm cho cán bộ DQTV hằng quý đúng quy định..., tạo điều kiện thuận lợi để cán bộ, chiến sĩ trong lực lượng an tâm công tác, nâng cao hiệu quả hoạt động.
Lực lượng DBĐV được xây dựng có chất lượng ngày càng cao, sẵn sàng động viên bổ sung cho quân đội khi có nhu cầu. Bám sát tinh thần Pháp lệnh DBĐV, Chỉ thị 16/CT-TW của Ban Bí thư Trung ương Đảng và thực hiện Quyết định số 137/2005/QĐ-TTg ngày 09-6-2005 của Thủ tướng Chính phủ về giao chỉ tiêu, kế hoạch xây dựng lực lượng DBĐV cho các địa phương, Quyết định số 151/2005/QĐ-BQP ngày 07-10-2005 của Bộ trưởng Bộ Quốc phòng về giao chỉ tiêu, kế hoạch, quy mô, loại hình tổ chức, số lượng đơn vị DBĐV cho Kiên Giang, Tỉnh đã kịp thời điều chỉnh chỉ tiêu, địa bàn xây dựng lực lượng DBĐV cho các địa phương, đơn vị, phù hợp với điều kiện thực tế địa phương. Cơ quan quân sự các cấp thực hiện nghiêm túc, chặt chẽ việc đăng ký, phúc tra theo chỉ tiêu, kế hoạch được giao, gắn với quản lý chỉ tiêu tuyển quân, tiếp nhận quân nhân hoàn thành nghĩa vụ quân sự hằng năm, làm cơ sở cho việc sắp xếp, biên chế vào các đơn vị DBĐV. Lực lượng DBĐV được tổ chức, biên chế theo hướng gọn địa bàn, xếp đúng hoặc gần đúng chuyên nghiệp quân sự; ưu tiên sắp xếp đủ quân cho các đơn vị động viên khẩn cấp, động viên cho trạng thái SSCĐ cao, các địa bàn trọng điểm, nhất là biên giới, đảo; chú trọng xây dựng đội ngũ cán bộ, chỉ huy các cấp có đủ trình độ, năng lực chỉ huy, quản lý đơn vị. Đến nay, toàn Tỉnh đã bố trí, sắp xếp được 74,22% quân số theo biên chế; trong đó, sĩ quan xếp đạt 34,7%; hạ sĩ quan, chiến sĩ đạt 85% so với nhu cầu; tỷ lệ đúng chuyên nghiệp quân sự đạt 60,43%; lực lượng của Bộ đạt 68,2%, Quân khu đạt 83,4%, Tỉnh đạt 60,43%, huyện đạt 87,33%; riêng các đơn vị động viên khẩn cấp đạt 100% so với biên chế. Thường xuyên rà soát, điều chỉnh các kế hoạch xây dựng, huy động và tiếp nhận lực lượng DBĐV; bổ nhiệm, chi trả phụ cấp trách nhiệm cho quân nhân dự bị giữ chức vụ chỉ huy trong các đơn vị DBĐV đúng với quy định. Hằng năm, các huyện (thị xã, thành phố) đều thực hiện nghiêm túc kế hoạch huấn luyện, kiểm tra, góp phần nâng cao trách nhiệm và trình độ SSCĐ của quân nhân dự bị (quân số tham gia đạt từ 98,5% trở lên), bảo đảm sẵn sàng lên đường bổ sung cho quân đội khi có nhu cầu.
Nhờ sự quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp, các ngành, LLVT Kiên Giang từng bước trưởng thành, vững mạnh, thực sự là lực lượng nòng cốt của nền QPTD, thế trận QPTD gắn với thế trận an ninh nhân dân, bảo vệ vững chắc địa bàn; góp phần giữ vững an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội, tham gia phát triển kinh tế- xã hội địa phương; cùng toàn Đảng, toàn dân xây dựng thành công và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam XHCN trên địa bàn trọng yếu hướng Tây Nam Tổ quốc.
Đại tá NGUYỄN OANH LIỆT
Chỉ huy trưởng BCHQS Tỉnh
Trao đổi ý kiến giữa Tạp chí quốc phòng toàn dân với bạn đọc, cộng tác viên Quân khu 5 12/12/2011
Nghệ thuật tổ chức, sử dụng lực lượng quân sự trong những ngày đầu kháng chiến toàn quốc 12/12/2011
“Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến” với việc xây dựng nền quốc phòng toàn dân trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc hiện nay 12/12/2011
Một số vấn đề về nghệ thuật chiến dịch phòng ngự trong chiến tranh bảo vệ Tổ quốc 12/12/2011
Hưng Yên không ngừng nâng cao hiệu quả công tác giáo dục quốc phòng 12/12/2011
Kết quả và kinh nghiệm tiến hành công tác phổ biến, giáo dục pháp luật của lực lượng vũ trang Quân khu 5 12/12/2011
Đoàn B.90 nâng cao chất lượng xây dựng lực lượng dự bị động viên - một số kinh nghiệm bước đầu 12/12/2011
Trường Quân sự Binh đoàn Cửu Long phấn đấu nâng cao chất lượng giáo dục, đào tạo và huấn luyện 11/12/2011
Kết hợp kinh tế với quốc phòng, tạo lập thế trận phòng thủ vững chắc trên địa bàn tỉnh ven biển Thái Bình 11/12/2011
Trung tâm Nhiệt đới Việt - Nga phát huy nội lực, mở rộng hợp tác, nâng cao hiệu quả hoạt động 11/12/2011