QPTD -Thứ Bảy, 10/12/2011, 23:09 (GMT+7)
Kết hợp đối ngoại với quốc phòng-an ninh trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc ngày nay
"Dựng nước đi đôi với giữ nước” là quy luật tồn tại và phát triển của dân tộc ta. Trong giai đoạn cách mạng hiện nay, quy luật đó được thể hiện trong việc thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược có mối quan hệ mật thiết với nhau là xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam XHCN. Những thành tựu mà nhân dân ta giành được trong sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước luôn gắn liền với sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc và có tác động hữu cơ với nhau. Việc kết hợp đối ngoại với quốc phòng-an ninh trong bối cảnh tình hình thế giới và khu vực tiếp tục có những diễn biến phức tạp, dưới tác động của xu thế toàn cầu hóa kinh tế và hội nhập quốc tế lại càng trở nên quan trọng hơn bao giờ hết nhằm đáp ứng kịp thời và đầy đủ yêu cầu và nhiệm vụ của sự nghiệp cách mạng nước ta hiện nay.

Kết hợp đối ngoại với quốc phòng-an ninh là đặc điểm nổi bật, xuyên suốt của lịch sử đất nước ta.

Trong lịch sử mấy nghìn năm dựng nước và giữ nước, xuất phát từ những đặc điểm lịch sử, địa lý và truyền thống văn hóa của dân tộc, hoạt động ngoại giao luôn có sự phối hợp hài hòa với hoạt động quân sự, tạo dựng thế và lực cho đất nước, góp phần xứng đáng vào sự nghiệp bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ và phát triển đất nước. Lịch sử Việt Nam còn lưu danh nhiều tên tuổi như Lý Thường Kiệt, Nguyễn Trãi, Trần Hưng Đạo... Đó không chỉ là những vị tướng tài ba mà còn là những nhà ngoại giao kiệt xuất, trí tuệ, đã phát huy cao độ truyền thống ngoại giao tâm công, làm sáng ngời chính nghĩa thắng hung tàn, ngăn ngừa chiến tranh, bảo vệ chủ quyền lãnh thổ cho đất nước, dân tộc.
Từ khi ra đời và trong suốt quá trình phát triển của cách mạng Việt Nam, dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, việc kết hợp ngoại giao với quân sự đã được phát huy cao độ. Mỗi bước thắng lợi trong lịch sử cách mạng nước ta đều mang dấu ấn của sự kết hợp hài hòa, nhuần nhuyễn giữa đối ngoại và quốc phòng-an ninh. Chúng ta nhớ lại trong thời kỳ 1945-1946, trong tình thế vô cùng hiểm nghèo, ngoại giao đã đóng góp vai trò quan trọng trong việc giữ vững chính quyền cách mạng còn non trẻ, kéo dài thời gian trì hoãn chiến tranh để tranh thủ chuẩn bị lực lượng cho trường kỳ kháng chiến. Đặc biệt, trong hai cuộc kháng chiến thần thánh giành độc lập dân tộc, thống nhất đất nước, hoạt động ngoại giao đã phối hợp chặt chẽ và có hiệu quả với đấu tranh quân sự và chính trị, hỗ trợ đắc lực cho mặt trận quân sự, phá thế bao vây, giành thế chủ động, tạo dựng mặt trận nhân dân thế giới ủng hộ cuộc đấu tranh chính nghĩa của nhân dân ta, đưa tới thắng lợi trọn vẹn vào ngày 30-4-1975. Sau khi đất nước thống nhất, công cuộc khôi phục và xây dựng đất nước chưa được bao lâu thì nước ta lại đứng trước nhiều thách thức nghiêm trọng, ngoại giao đã góp phần từng bước phá thế bao vây cô lập về chính trị, cấm vận về kinh tế. Việc thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, đa dạng hóa, đa phương hóa các quan hệ quốc tế đã đạt được những thành tựu rất quan trọng. Quan hệ đối ngoại của nước ta đã được mở rộng hơn bao giờ hết. Lần đầu tiên trong lịch sử, nước ta đã có quan hệ hợp tác bình đẳng với tất cả các nước lớn và trung tâm kinh tế-chính trị lớn trên thế giới. Chúng ta đã mở rộng thị trường xuất khẩu, thu hút được một khối lượng lớn FDI và ODA, tích cực và chủ động hội nhập sâu hơn và đầy đủ hơn vào kinh tế khu vực và thế giới. Vị thế của nước ta trên trường quốc tế ngày càng được nâng cao. Những thành tựu về đối ngoại tạo ra một môi trường quốc tế hòa bình và các điều kiện quốc tế thuận lợi để nước ta tập trung xây dựng kinh tế và bảo vệ Tổ quốc.
Sự gắn kết hữu cơ giữa đối ngoại với quốc phòng-an ninh trong 20 năm đổi mới đã góp phần nâng cao sức mạnh tổng hợp của cả dân tộc; gắn sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, đưa đất nước vững bước vào thời kỳ mới-thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế.
Mối quan hệ giữa chiến lược đối ngoại với quốc phòng-an ninh trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay.
Tình hình thế giới trong những năm tới tiếp tục có những chuyển biến sâu sắc, chứa đựng những nhân tố khó lường, tác động nhiều chiều tới an ninh và phát triển của các quốc gia, trong đó có nước ta. Trên cơ sở đánh giá đặc điểm, các mâu thuẫn cơ bản và xu thế phát triển của thế giới, Đại hội lần thứ X của Đảng đã nhận định: hòa bình, hợp tác và phát triển vẫn là xu thế lớn. Kinh tế thế giới và khu vực tiếp tục phục hồi và phát triển, nhưng vẫn tiềm ẩn những yếu tố bất trắc, khó lường. Toàn cầu hóa kinh tế tạo ra cơ hội nhưng cũng chứa đựng nhiều yếu tố bất bình đẳng, gây khó khăn, thách thức cho các quốc gia, nhất là các nước đang phát triển. Khoa học và công nghệ sẽ có những bước đột phá mới. Mặt khác, những cuộc chiến tranh cục bộ, xung đột vũ trang, xung đột sắc tộc, tôn giáo, chạy đua vũ trang, hoạt động can thiệp, lật đổ, tranh chấp về lãnh thổ và tài nguyên thiên nhiên tiếp tục diễn ra ở nhiều nơi với tính chất ngày càng phức tạp. Đồng thời, nhiều vấn đề toàn cầu bức xúc đòi hỏi các quốc gia và các tổ chức quốc tế phải phối hợp giải quyết.
Trong những năm tới, nước ta có những thuận lợi, đồng thời cũng sẽ đứng trước không ít những khó khăn. Thuận lợi cơ bản là tiềm lực và vị thế quốc tế của nước ta được tăng cường. Qua 20 năm đổi mới, Đảng đã lãnh đạo nhân dân ta giành được những thành tựu hết sức to lớn, kinh tế tăng trưởng liên tục trong nhiều năm liền, được xếp vào loại cao nhất thế giới. Tình hình chính trị-xã hội ổn định, đời sống nhân dân được cải thiện, quan hệ quốc tế không ngừng được mở rộng, đã thiết lập khuôn khổ quan hệ ổn định với các nước, đặc biệt là các nước trong khu vực và các nước lớn, vị thế quốc tế của nước ta ngày càng được nâng cao trên trường quốc tế, các nước đều mong muốn thúc đẩy quan hệ hợp tác với nước ta. Với những thuận lợi cơ bản đó, chúng ta có khả năng giữ vững hòa bình, ổn định để thực hiện thắng lợi mục tiêu phát triển kinh tế-xã hội, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước theo định hướng XHCN. Tuy nhiên, chúng ta cũng phải đối phó với không ít thách thức đặt ra. Bốn nguy cơ mà Đảng ta đã xác định tiếp tục diễn biến phức tạp, đan xen, không thể coi nhẹ nguy cơ nào. Đó là nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế so với các nước trong khu vực và trên thế giới; chệch hướng XHCN; nạn tham nhũng, quan liêu; các thế lực thù địch vẫn đang ráo riết thực hiện âm mưu “diễn biến hòa bình”, gây bạo loạn lật đổ, sử dụng các chiêu bài “dân chủ”, “nhân quyền”, “dân tộc”, “tôn giáo” hòng làm thay đổi chế độ chính trị ở nước ta”1.
Trong bối cảnh đó, đòi hỏi cấp bách của nước ta là phải tranh thủ cơ hội, vượt qua thách thức, tiếp tục công cuộc đổi mới mạnh mẽ, toàn diện và đồng bộ, phát triển với tốc độ nhanh hơn và bền vững hơn để thực hiện mục tiêu mà Đại hội Đảng X đã đề ra là sớm đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển. Công tác đối ngoại nói chung và ngành ngoại giao nói riêng phải quán triệt sâu sắc hơn nữa những bài học cơ bản mà Đảng ta đã đúc kết được trong quá trình lãnh đạo cách mạng, đặc biệt là bài học về kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh của thời đại, sức mạnh trong nước với sức mạnh quốc tế và vận dụng các bài học đó một cách sáng tạo, nhằm tạo nên sức mạnh tổng hợp, thực hiện thắng lợi nhiệm vụ đối ngoại là giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để tập trung vào công cuộc phát triển kinh tế- xã hội.
           
Để thực hiện được yêu cầu trên, việc kết hợp giữa hoạt động đối ngoại và quốc phòng-an ninh trở nên cấp thiết hơn bao giờ hết. Đây chính là mối quan hệ biện chứng, gắn kết lẫn nhau giữa an ninh và phát triển. Mối quan hệ này cần được giải quyết phù hợp với đặc điểm và bối cảnh tình hình thế giới mới. Đối với nước ta, quốc phòng-an ninh là sự kết hợp nhiều yếu tố với nhau, giữa các yếu tố bên trong và bên ngoài. Quốc phòng-an ninh là nền tảng và là chỗ dựa cho hoạt động đối ngoại, góp phần nâng cao vị thế của đất nước. Mặt khác, hoạt động đối ngoại cũng góp phần vào việc nâng cao tiềm năng và hiệu quả của quốc phòng-an ninh. Do đó, bản chất mối quan hệ giữa đối ngoại và quốc phòng-an ninh là thống nhất về mục tiêu, có sự khác biệt về đặc thù và phương pháp thực hiện trong từng giai đoạn lịch sử và trên từng mảng vấn đề. Tuy lúc này lúc khác, phương diện này hay phương diện khác, đối ngoại hoặc quốc phòng-an ninh giữ vai trò chủ đạo, nhưng tất cả đều nhằm mục tiêu tạo dựng và tranh thủ mọi điều kiện cho công cuộc phát triển đất nước, góp phần giữ vững hòa bình, mở rộng quan hệ, nâng cao thế và lực của ta trên trường quốc tế. Vì vậy, sự phối hợp nhuần nhuyễn giữa các mặt trên trong quá trình triển khai thực hiện chiến lược phát triển chung của đất nước là vô cùng quan trọng.
Tình hình thế giới có nhiều diễn biến phức tạp, nhiều nhân tố khó lường, nhiều vấn đề nảy sinh phải giải quyết, tác động nhiều chiều tới an ninh và phát triển của nước ta. Vì thế, trong chiến lược phát triển đất nước nói chung và chiến lược bảo vệ Tổ quốc nói riêng, cần phải lưu ý thỏa đáng những yếu tố đặc thù nói trên để tìm ra những giải pháp thích hợp, phù hợp với lợi ích của quốc gia.
Đại hội X của Đảng tiếp tục khẳng định việc thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hợp tác và phát triển; chính sách đối ngoại rộng mở, đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ quốc tế theo phương châm “Việt Nam là bạn, là đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế, tham gia tích cực vào tiến trình hợp tác quốc tế và khu vực”. Đối ngoại và quốc phòng-an ninh đều có nhiệm vụ quan trọng trong thực hiện nhiệm vụ này. Đó chính là việc xử lý mối quan hệ tương tác giữa đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ quốc tế và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế với yêu cầu đảm bảo an ninh-quốc phòng trong bối cảnh và tình hình mới. Đảm bảo an ninh-quốc phòng là tiền đề không thể thiếu để thực hiện đa dạng hóa, đa phương hóa quan hệ đối ngoại và hội nhập quốc tế thành công. Đồng thời, mở rộng quan hệ đối ngoại và hội nhập quốc tế sẽ tạo dựng cho đất nước ta một môi trường quốc tế ổn định, lâu bền và phù hợp với xu thế phát triển của thời đại, dựa trên lợi ích chung với các nước khác để bảo vệ lợi ích tối cao của dân tộc. Đó cũng là một hình thức tranh thủ sức mạnh của thời đại, kết hợp với sức mạnh dân tộc tạo thành sức mạnh tổng hợp cho đất nước. Tuy nhiên, việc tham gia tích cực vào tiến trình hợp tác quốc tế và khu vực sẽ đưa lại những cơ hội phát triển, an ninh và ổn định cho đất nước, nhưng đồng thời cũng đặt ra nhiều thách thức mới. Vấn đề đặt ra là phải tính toán chúng ta tham gia vấn đề gì, ở mức độ như thế nào, vào thời điểm nào là có lợi nhất cho đất nước.
Một vấn đề có ý nghĩa quyết định đối với việc gắn hoạt động đối ngoại với nhiệm vụ củng cố quốc phòng-an ninh trong thời kỳ mới là đảm bảo sự lãnh đạo và quản lý thống nhất của Đảng và Nhà nước, đặc biệt trong lĩnh vực đối ngoại. Hoạt động đối ngoại ngày nay diễn ra đa dạng, đa tầng, với sự tham gia của nhiều đối tượng, hướng đến nhiều đối tác khác nhau, trên nhiều lĩnh vực và địa bàn rộng khắp. Sự lãnh đạo và quản lý thống nhất đảm bảo cho tất cả các lực lượng tham gia hoạt động đối ngoại thực hiện đúng đường lối và chủ trương của Đảng và Nhà nước, hiệp đồng hài hòa, hợp tác chặt chẽ, bổ sung và hỗ trợ cho nhau. Những lợi ích, yêu cầu và đặc thù riêng của từng ngành, từng địa phương vừa được lưu ý thỏa đáng lại vừa được gắn kết với nhau chứ không mâu thuẫn với nhau. Kết quả của sự gắn kết này là thế trận đối ngoại, kinh tế, an ninh và quốc phòng dưới sự lãnh đạo của Đảng và quản lý của Nhà nước. Thống nhất quản lý đối ngoại sẽ phát huy được tác dụng của khối đại đoàn kết toàn dân tộc, cộng hưởng được sức mạnh của tất cả các bộ, ban, ngành và địa phương, tổ chức, cá nhân tham gia vào hoạt động đối ngoại.
Hoạt động đối ngoại được tiến hành trong mối quan hệ hữu cơ và biện chứng giữa thế và lực của đất nước, giữa phát triển đất nước và hội nhập quốc tế. Sức mạnh toàn diện của đất nước vẫn luôn là sự đảm bảo và cơ sở cho thắng lợi của hoạt động đối ngoại và hoạt động đối ngoại góp phần làm tăng thêm sức mạnh cho đất nước.
Các lĩnh vực kết hợp đối ngoại và quốc phòng-an ninh trong tình hình hiện nay.
Sự phối hợp giữa đối ngoại và quốc phòng-an ninh cần tập trung vào các mặt sau:
Một là, đảm bảo môi trường quốc tế thuận lợi nhất cho công cuộc xây dựng và phát triển đất nước. Đối ngoại cần phối hợp chặt chẽ với quốc phòng-an ninh trong việc duy trì môi trường hòa bình, ổn định, tạo các điều kiện quốc tế thuận lợi, bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, đáp ứng tối đa yêu cầu phát triển của đất nước; cần phối hợp chặt chẽ giữa các lực lượng trong thực hiện Nghị quyết Trung ương 8, khóa IX về Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới.
Hai là, phối hợp chặt chẽ giữa đối ngoại và quốc phòng-an ninh trong việc đưa quan hệ với các đối tác chính đi vào chiều sâu, củng cố và triển khai các khuôn khổ hợp tác toàn diện, ổn định, lâu dài và tin cậy lẫn nhau đã được thiết lập với các nước trong và ngoài khu vực; tạo dựng khuôn khổ hợp tác với các đối tác khác. Đây là một nội dung mới trong nhiệm vụ đối ngoại do Đại hội Đảng lần thứ X đề ra, đòi hỏi các cấp, các ngành phải quán triệt sâu sắc và có bước phối hợp triển khai cụ thể nhằm thực hiện thắng lợi nhiệm vụ đối ngoại do Đảng và Nhà nước đề ra.
Ba là, phối hợp chặt chẽ giữa đối ngoại và quốc phòng-an ninh trong triển khai đường lối kinh tế và hội nhập kinh tế quốc tế của Đảng và Nhà nước ta. Cần phối hợp chặt chẽ từ khâu xây dựng chiến lược, quy hoạch phát triển kinh tế-xã hội của cả nước, của từng ngành và từng địa phương và trong xây dựng lộ trình hội nhập kinh tế quốc tế theo hướng vừa tranh thủ tốt nhất sự giúp đỡ từ bên ngoài cho phát triển kinh tế, nhưng vẫn đảm bảo an ninh của đất nước và phát triển tối đa nội lực, giữ vững độc lập, tự chủ và định hướng XHCN. Kết hợp chặt chẽ phát triển kinh tế-xã hội với xây dựng lực lượng và thế trận quốc phòng toàn dân, lực lượng và thế trận an ninh nhân dân; xây dựng Quân đội nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, cùng toàn dân bảo vệ vững chắc Tổ quốc XHCN.
Bốn là, chủ động thúc đẩy ngoại giao quốc phòng, ngoại giao an ninh, tích cực chủ động hội nhập khu vực và quốc tế. Những họat động trao đổi, tiếp xúc, tham khảo thường kỳ hoặc hội nghị, hội thảo về quân sự giữa nước ta và các nước khác qua con đường song phương và ở các diễn đàn đa phương đã giúp xây dựng và củng cố lòng tin, tăng cường sự hiểu biết lẫn nhau, giảm bớt nghi ngờ và nghi kỵ, đồng thời cũng đóng góp trực tiếp vào việc tranh thủ tập hợp lực lượng có lợi cho việc củng cố, tăng cường quốc phòng-an ninh và nâng cao vị thế đất nước.
Năm là, phối hợp chặt chẽ giữa đối ngoại và quốc phòng-an ninh trong công tác nghiên cứu, dự báo tình hình, chia sẻ thông tin để đưa ra những đánh giá khách quan và đúng nhất về những diễn biến của tình hình thế giới, tình hình khu vực, những diễn biến mới nảy sinh của tình hình trong nước, nhằm tạo ra sự nhất trí và thống nhất trong xây dựng phương án đối phó, triển khai có hiệu quả hoạt động đối ngoại của Đảng và Nhà nước. Cần chú trọng công tác đào tạo cán bộ theo hướng cán bộ ngành đối ngoại cần hiểu và có kiến thức về công tác quốc phòng-an ninh và cán bộ quốc phòng-an ninh cũng được trang bị sâu hơn về kiến thức đối ngoại.
Hoạt động đối ngoại gắn kết với quốc phòng-an ninh, phục vụ công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc là một truyền thống lịch sử và là một bài học hết sức quý báu đã được thực tiễn kiểm nghiệm trong suốt quá trình cách mạng nước ta. Trong thời gian tới, các cấp, các ngành cần tăng cường phối hợp với nhau, góp phần tạo nên sức mạnh tổng hợp của đất nước nhằm thực hiện thắng lợi công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc XHCN theo đường lối đổi mới của Đảng.
 
Lê Công Phụng
Thứ trưởng Thường trực Bộ Ngoại giao
 
1- ĐCSVN, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb CTQG, H. 2006, tr. 22.

 

Ý kiến bạn đọc (0)