QPTD -Thứ Ba, 06/09/2011, 21:43 (GMT+7)
Giữ vững và tăng cường quốc phòng-an ninh trong quá trình tham gia WTO

Gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) là một bước tiến quan trọng trong quá trình chủ động hội nhập vào nền kinh tế thế giới của nước ta. Gia nhập WTO, nước ta có nhiều cơ hội để đẩy nhanh phát triển kinh tế và củng cố, tăng cường quốc phòng-an ninh (QP-AN). Biểu hiện rõ nét là nền kinh tế nước ta sẽ tiếp cận thị trường hàng hóa và dịch vụ ở tất cả các nước thành viên một cách bình đẳng, không bị phân biệt đối xử; tạo điều kiện cho nước ta mở rộng thị trường xuất khẩu; có điều kiện để đấu tranh nhằm bảo vệ sự công bằng và hợp lý hơn các lợi ích của đất nước và của các doanh nghiệp trong nước. Vốn và công nghệ nguồn, công nghệ tiên tiến sẽ có cơ hội đầu tư vào nước ta nhiều hơn, kích thích tăng trưởng kinh tế, tạo ra khả năng mở một số ngành hàng và theo đó tạo thêm việc làm cho người lao động. Đây cũng là những yếu tố tác động thuận lợi, thúc đẩy mối quan hệ đa phương, tạo điều kiện cho việc trao đổi thông tin, tăng cường hiểu biết, hướng tới mục tiêu hòa bình, ổn định cùng phát triển, đảm bảo QP-AN. Đồng thời, tạo điều kiện thuận lợi cho việc đoàn kết rộng rãi, tin cậy lẫn nhau, tranh thủ sự ủng hộ của các quốc gia và tổ chức quốc tế trong công cuộc đấu tranh bảo vệ độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ và lợi ích quốc gia. Sự phát triển của nền kinh tế nói chung, của thương mại, dịch vụ, đầu tư nói riêng còn tạo điều kiện thuận lợi cho việc đổi mới công nghệ quân sự, phát triển công nghiệp quốc phòng, hiện đại hóa vũ khí, trang bị kỹ thuật quân sự và xây dựng tiềm lực quân sự, tăng cường sức mạnh QP-AN.

Trong khi nhận rõ những cơ hội và điều kiện thuận lợi do việc gia nhập WTO đem lại, cần thấy hết những thách thức và tác động không thuận lợi đến mọi lĩnh vực, đặc biệt là đến QP-AN của đất nước. Thực hiện các cam kết với WTO, chúng ta phải mở rộng thị trường, tăng cường huy động nguồn đầu tư nước ngoài, hình thành các liên doanh, liên kết, các khu kinh tế mở ngay trong nội địa, các tam giác, tứ giác kinh tế liên quốc gia, kinh tế cửa khẩu. Theo đó, đối phương có điều kiện áp sát tiếp cận ta; vấn đề bảo đảm an ninh quốc gia, toàn vẹn lãnh thổ, bảo vệ biên giới, đất liền, trên biển và trên không sẽ gặp khó khăn hơn. Việc tập hợp, xây dựng lực lượng QP-AN, nhất là lực lượng tự vệ trong các liên doanh, công ty có vốn đầu tư nước ngoài sẽ không dễ dàng và hết sức phức tạp. Tổ chức xây dựng thế trận kết hợp kinh tế-xã hội (KT-XH) với QP-AN sẽ có khó khăn.

Việc thực hiện các cam kết với WTO, đẩy nhanh phát triển nền kinh tế sẽ nảy sinh nhiều vấn đề mới, nhất là sự cạnh tranh về kinh tế sẽ trở nên gay gắt hơn, quyết liệt hơn và diễn ra trên quy mô rộng hơn. Nguy cơ phá sản một bộ phận doanh nghiệp vừa và nhỏ, nguy cơ thất nghiệp của người lao động, nhất là các hộ nông nghiệp và bà con nông dân (đội quân chủ lực) và công nhân (giai cấp lãnh đạo) sẽ tăng lên. Theo đó là sự phân hóa tầng lớp, giai cấp, khoảng cách giàu nghèo, mất cân đối về thu nhập giữa các vùng miền, ngành nghề sẽ tăng nhanh, dẫn tới nảy sinh bất công, tệ nạn, đình công, biểu tình, dễ gây mất ổn định chính trị-xã hội, ảnh hưởng tới QP-AN.

Hội nhập sâu vào nền kinh tế thế giới, phát triển nhanh kinh tế thị trường có mặt tích cực, nhưng cũng bị tác động không nhỏ bởi mặt trái của nó. Chủ nghĩa cá nhân cực đoan, lối sống thực dụng, sùng bái đồng tiền; tệ tham nhũng, buôn lậu, cờ bạc, mại dâm, ma túy, mê tín dị đoan... sẽ làm xói mòn những truyền thống và nếp sống văn hóa tốt đẹp của dân tộc, trong đó có truyền thống, văn hóa giữ nước Việt Nam.

Như vậy, nước ta gia nhập WTO vừa có cơ hội lớn, lại vừa có những thách thức, khó khăn không nhỏ. Để khai thác cơ hội, vượt quá thách thức, khó khăn, đưa nền kinh tế nước ta phát triển nhanh và bền vững, Đảng và Nhà nước ta đã đề ra những chủ trương, chính sách trên các lĩnh vực, trong đó có yêu cầu phải giải quyết tốt là giữ vững và tăng cường QP-AN của đất nước trong quá trình hội nhập WTO. Đây là một chủ trương lớn, đồng thời là một nhiệm vụ trọng yếu thường xuyên của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta, cần có những giải pháp phù hợp với tình hình mới.

1- Tăng cường và nâng cao chất lượng công tác giáo dục, bồi dưỡng kiến thức QP-AN cho cán bộ, công chức và toàn dân. Trong đó chú trọng làm cho các đối tượng, nhất là đội ngũ cán bộ các cấp, các ngành, đoàn thể từ Trung ương đến địa phương, cơ sở nhận rõ đặc điểm của thời kỳ hội nhập, tác động của toàn cầu hóa kinh tế đối với QP-AN của đất nước; thống nhất nhận thức về đối tượng và đối tác; nắm vững nội dung kết hợp giữa KT-XH với QP-AN trong điều kiện Việt Nam là thành viên của WTO; nắm vững đường lối, quan điểm, yêu cầu nhiệm vụ QP-AN, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới; nâng cao ý thức cảnh giác trước âm mưu, thủ đoạn trong chiến lược “Diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch. Kiên quyết khắc phục những nhận thức không đúng như chỉ quan tâm đến kinh tế, đến lợi nhuận trong sản xuất và kinh doanh mà lơ là, mất cảnh giác hoặc xem nhẹ việc bảo đảm QP-AN, thậm chí đi chệch định hướng XHCN. Theo đó, cần tiếp tục hoàn thiện chương trình, giáo trình, công tác quản lý nhà nước và phương pháp tổ chức giáo dục, bồi dưỡng kiến thức QP-AN cho phù hợp với từng đối tượng. Sớm nhân rộng mô hình bồi dưỡng kiến thức QP-AN cho các chức sắc, chức việc tôn giáo, các cán bộ lãnh đạo, quản lý và cán bộ phụ trách công đoàn ở các đơn vị, doanh nghiệp trong các thành phần kinh tế ở một số địa phương đã làm tốt ra cả nước, để các đối tượng này nhận thức đúng tình hình và biết cách xử lý các tình huống phức tạp, nhạy cảm nảy sinh do tác động tiêu cực trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế.

2- Ban hành và thực hiện có hiệu quả các chủ trương, chính sách phù hợp với tâm tư, nguyện vọng của nhân dân và những cam kết với WTO. Trong quá trình hội nhập vào nền kinh tế thế giới vừa qua, nhất là sau hơn một năm là thành viên chính thức của WTO, Đảng và Nhà nước ta đã ban hành nhiều chủ trương, chính sách về kinh tế, chính sách phúc lợi và an sinh xã hội, tạo được sự đồng thuận của nhân dân, thu hút được nguồn đầu tư lớn từ nước ngoài. Tuy nhiên, vẫn còn một số địa phương hoặc lĩnh vực chưa quán triệt tốt chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, nên trong tổ chức thực hiện còn nhiều lúng túng, chưa hợp với ý Đảng, lòng dân. Điều đáng lo ngại hiện nay là tình trạng phát triển quá “nóng” các khu công nghiệp, khu chế xuất, du lịch sinh thái, sân gôn trên diện tích đất nông nghiệp, nơi được cho là “bờ xôi, ruộng mật”, dẫn đến hậu quả khó lường về môi trường, an ninh nông thôn, an ninh lương thực và những vấn đề xã hội khác. Nhiều vụ việc tranh chấp đất đai, đền bù giải phóng mặt bằng ... để lại hậu quả xấu về trật tự xã hội, làm mất an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội ở một số địa phương, cơ sở. Điều đó đặt ra cho các cơ quan chức năng từ Trung ương đến địa phương khi nghiên cứu, đề xuất, ban hành và tổ chức thực hiện các chủ trương, chính sách của Đảng cần tập trung nghiên cứu, đề xuất, ban hành các chủ trương, chính sách nhằm đẩy mạnh sản xuất, phát triển dịch vụ và thu hút đầu tư; quan tâm tháo gỡ các khó khăn, vướng mắc, bảo đảm đủ vốn, đủ ngoại tệ cho các ngành hàng, các sản phẩm mà thị trường trong nước và xuất khẩu đang có nhu cầu lớn. Cần tăng mạnh đầu tư cho sản xuất nông nghiệp và phát triển nông thôn để vừa bảo đảm đủ lương thực cho tiêu dùng trong nước, vừa tăng thêm số lượng lương thực xuất khẩu, đồng thời cải thiện tốt hơn đời sống của người sản xuất lương thực. Tiếp tục rà soát, kiểm tra để có sự điều chỉnh và hạn chế nghiêm ngặt việc chuyển đất trồng lúa và hoa màu đang sử dụng vào các mục đích khác. Nâng cao hơn nữa hiệu quả thực hiện các chương trình, dự án xóa đói, giảm nghèo; giải quyết tốt hơn vấn đề công bằng xã hội trong mỗi bước phát triển kinh tế; khắc phục triệt để những thiệt thòi mà người dân phải gánh chịu trong tổ chức thực hiện các chính sách liên quan đến thu hồi đất, giải phóng mặt bằng, tái định cư, chuyển đổi cơ cấu kinh tế. Đó là những yêu cầu cấp thiết cần được giải quyết tốt, để góp phần đẩy mạnh phát triển KT-XH, giữ vững ổn định chính trị và bảo đảm QP-AN của đất nước.

3- Nâng cao hiệu quả kết hợp phát triển kinh tế với tăng cường QP-AN trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. Gia nhập WTO, nước ta có điều kiện phát triển nhanh nền kinh tế, nhưng việc thực hiện kết hợp KT-XH với QP-AN sẽ có nhiều khó khăn. Trong điều kiện các đối tác kinh tế được quyền cạnh tranh bình đẳng để đạt mục tiêu lợi nhuận thì họ không dễ dàng chấp nhận hy sinh quyền lợi để phục vụ cho mục tiêu QP-AN; thêm nữa, trong luật quốc tế lại không bắt buộc các nhà đầu tư phải có trách nhiệm, nghĩa vụ bảo đảm QP-AN cho nước sở tại. Vì vậy, để thực hiện có hiệu quả việc kết hợp KT-XH với QP-AN trong quá trình hội nhập, một mặt, phải tiếp tục quán triệt sâu sắc và triển khai thực hiện nghiêm túc các quan điểm, chủ trương, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước về kết hợp KT-XH với QP-AN; mặt khác, tư duy về vấn đề này cũng cần tiếp tục đổi mới. Việc xây dựng quy hoạch, kế hoạch phát triển KT-XH kết hợp với tăng cường QP-AN phải trên cơ sở nắm chắc xu thế của thời đại, có nhãn quan chiến lược trong phân tích, dự báo tình hình.. Phải thực sự khách quan, chống quan điểm hội nhập bằng mọi giá, coi nhẹ QP-AN hoặc quá nhấn mạnh QP-AN mà bỏ lỡ cơ hội phát triển kinh tế. Quy hoạch, kế hoạch tổng thể phát triển KT-XH kết hợp với QP-AN ở từng ngành, từng vùng lãnh thổ cần được bổ sung, điều chỉnh cho phù hợp với yêu cầu mới. Cụ thể, với các vùng kinh tế trọng điểm, là nơi các nhà đầu tư chú trọng xây dựng các khu công nghiệp tập trung, khu chế xuất, sân gôn.... nếu để lựa chọn, họ sẽ đầu tư vào những nơi thuận lợi cho phát triển sản xuất và kinh doanh, tránh các địa bàn khó khăn. Vì vậy, các cơ quan quản lý nhà nước khi thẩm định đề án xây dựng, dự án đầu tư cần xem xét và luận chứng rõ mối quan hệ giữa kết hợp KT-XH với QP-AN trong tổng thể và từng công trình, dự án, từ đó điều tiết việc triển khai bố trí các cơ sở sản xuất, kinh doanh, đảm bảo được mục tiêu cho cả KT-XH và QP-AN. Đối với vùng miền núi, biên giới, là nơi các nhà đầu tư chú trọng mở rộng thị trường, xây dựng trung tâm dịch vụ lớn tại các cửa khẩu. Vì vậy, cần có quy hoạch, kế hoạch xây dựng các trung tâm thương mại kết hợp với phát triển các đô thị mới, trung tâm cấp huyện, các thị trấn, thị tứ có cơ sở hạ tầng giao thông liên vùng, liên huyện, liên xã, bảo đảm phục vụ nâng cao đời sống nhân dân, thu hút dân đến tái định cư, tạo  điều kiện cho việc phát triển kinh tế, bố trí lực lượng kinh tế-quốc phòng, hình thành thế trận quốc phòng toàn dân và an ninh nhân dân bảo vệ vững chắc chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, biên giới quốc gia. Đối với vùng ven biển, hải đảo, là nơi nhiều doanh nghiệp, công ty nước ngoài sẽ tập trung đầu tư khai thác dầu khí, vận tải biển, đánh bắt hải sản... Vì vậy, trong quy hoạch, kế hoạch phát triển ở vùng này phải kết hợp hài hòa giữa yêu cầu đẩy mạnh phát triển kinh tế biển, ven biển với yêu cầu bảo đảm QP-AN, nhất là xác định vị trí, hướng phát triển, sử dụng đất đai, xây dựng kết cấu hạ tầng, bố trí dân cư, góp phần hình thành các tuyến phòng thủ vững chắc cả tuyến ven bờ, trên biển và hải đảo.

4- Tập trung xây dựng tiềm lực quân sự, đáp ứng yêu cầu tác chiến của Quân đội nhân nhân trong mọi tình huống. Để bảo đảm cho Quân đội hoàn thành thắng lợi nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc XHCN trong thời kỳ mới, một vấn đề quan trọng là phải tập trung xây dựng tiềm lực quân sự ngày càng vững mạnh và không ngừng phát triển. Vấn đề quan trọng hiện nay là cần xây dựng cơ chế, chính sách thu hút chất xám từ các nhà khoa học Việt kiều thuộc lĩnh vực công nghệ cao. Tận dụng thời cơ thuận lợi trong thời kỳ hội nhập kinh tế quốc tế để tranh thủ thị trường, tăng cường đầu tư mua sắm vũ khí, trang bị công nghệ tiên tiến, hiện đại, nhằm phục vụ cho việc xây dựng tiềm lực quân sự vững mạnh, đáp ứng tốt các nhiệm vụ giữ vững độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc. Từng bước đổi mới, hiện đại hóa các điều kiện bảo đảm thông tin, chỉ huy, tình báo cho lãnh đạo, chỉ huy các cấp trong lĩnh vực QP-AN; hiện đại hóa lực lượng phòng không ba thứ quân, bảo đảm đủ khả năng quản lý vùng trời quốc gia ở mọi độ cao và vùng thông báo bay (FIR); ứng dụng công nghệ thông tin mới vào lĩnh vực tự động hóa chỉ huy phục vụ kịp thời công tác chỉ huy ở cả ba cấp chiến lược, chiến dịch và chiến thuật. Khẩn trương quy hoạch các ngành, lĩnh vực công nghiệp quốc phòng và lưỡng dụng trọng yếu để tập trung đầu tư chiều sâu, đổi mới công nghệ. Xây dựng các dây chuyền sản xuất đủ khả năng cung cấp các loại vũ khí, trang bị phù hợp nhu cầu sẵn sàng chiến đấu và chiến đấu của Quân đội trong điều kiện tác chiến mới.

Đại tá Phạm Trang

 

Ý kiến bạn đọc (0)