QPTD -Thứ Bảy, 10/12/2011, 23:15 (GMT+7)
Giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa trong phát triển kinh tế thị trường qua 20 năm đổi mới và những vấn đề đặt ra

Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng Cộng sản Việt Nam, Đảng ta tiếp tục xác định: "Để đi lên CNXH, chúng ta phải phát triển nền kinh tế thị trường (KTTT) định hướng XHCN; đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa; xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc làm nền tảng tinh thần của xã hội; xây dựng nền dân chủ XHCN, thực hiện đại đoàn kết toàn dân tộc; xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân; xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh; bảo đảm vững chắc quốc phòng và an ninh quốc gia; chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế"1. Như vậy, việc lựa chọn và phát triển nền  KTTT qua 20 năm đổi mới là con đường đúng, nhờ đó đã đưa đất nước ta vượt qua khó khăn, tiếp tục quá độ lên CNXH.

Việc nhận dạng KTTT và vận dụng nó để giữ vững con đường đi lên CNXH ở nước ta đã phải trải qua quá trình đấu tranh gay go, tìm tòi, thử nghiệm. Trên cơ sở nền tảng chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng và nhân dân ta đã tổng kết thực tiễn mà có được mô hình và con đường đi ngày càng trở nên đúng đắn và đầy đủ hơn.
1. Giữ vững định hướng XHCN, từng bước phát triển nền KTTT
Trong mọi hoàn cảnh khó khăn của đất nước, Đảng và nhân dân ta luôn kiên định con đường quá độ lên CNXH mà Bác Hồ và dân tộc ta đã lựa chọn. Kết hợp độc lập dân tộc với CNXH là "sợi chỉ đỏ" xuyên suốt đường lối cách mạng Việt Nam. Đường lối đó không chỉ phù hợp trong giai đoạn cách mạng dân tộc, dân chủ trước đây mà còn là đường lối chỉ đạo trong giai đoạn cách mạng XHCN, trong công cuộc đổi mới hiện nay. Từ khi có Cương lĩnh năm 1991 đến nay, Đảng ta đã nhiều lần nêu rõ cần phải tiếp tục làm sáng tỏ hơn mô hình CNXH và con đường đi lên CNXH. Mặt khác, chính quá trình đổi mới đã liên tục cung cấp thêm cứ liệu để từng bước bổ sung, hoàn chỉnh phát triển nền KTTT định hướng XHCN ở Việt Nam.
Quá trình đó có thể kể đến những bước ngoặt như sau:
           
Một là, Đại hội VI của Đảng (12-1986) đã đề ra đường lối đổi mới toàn diện đất nước. Đây là một cột mốc đánh dấu bước chuyển quan trọng trong nhận thức về CNXH và con đường đi lên CNXH. Đại hội VI khẳng định phải đổi mới cơ chế quản lý kinh tế, chuyển mạnh các đơn vị kinh tế sang hạch toán kinh doanh theo quan điểm phát triển kinh tế hàng hóa có kế hoạch gồm nhiều thành phần kinh tế đi lên CNXH, kiên quyết xóa bỏ cơ chế quản lý bao cấp, quan liêu. Xác định cơ chế mới về quản lý kinh tế phải kết hợp hài hòa các lợi ích kinh tế của người lao động, của tập thể và toàn xã hội, coi đó là động lực thúc đẩy phát triển kinh tế. Đặc biệt, đến Hội nghị Trung ương 6 (khóa VI) đã phát triển thêm một bước, đó là phát triển nền kinh tế hàng hóa có kế hoạch gồm nhiều thành phần kinh tế đi lên CNXH. Khẳng định chính sách kinh tế nhiều thành phần có ý nghĩa chiến lược lâu dài. Thị trường vừa là một căn cứ vừa là một đối tượng của kế hoạch hóa. Khâu trung tâm để xây dựng cơ chế quản lý nền kinh tế hàng hóa có kế hoạch là chuyển tất cả các đơn vị kinh tế, đặc biệt là các xí nghiệp quốc doanh sang cơ chế kinh doanh, gắn với thị trường, hoạt động theo nguyên tắc tự trang trải, tự phát triển và làm nghĩa vụ nộp ngân sách Nhà nước.
Hai là, Đại hội VII (6-1991) và ngay sau đó, khi Liên Xô và các nước Đông Âu sụp đổ, Đảng ta vẫn tiếp tục thực hiện chủ trương xây dựng nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo hướng phát huy thế mạnh của các thành phần kinh tế vừa hợp tác, vừa cạnh tranh bổ sung cho nhau trong nền kinh tế quốc dân thống nhất.
Trên cơ sở đó đã xác định xây dựng cơ chế vận hành nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo định hướng XHCN là: Cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước bằng pháp luật, kế hoạch, chính sách và các công cụ khác. Trong đó, Nhà nước quản lý nền kinh tế nhằm định hướng, dẫn dắt các thành phần kinh tế, tạo môi trường và điều kiện thuận lợi cho hoạt động sản xuất, kinh doanh theo cơ chế thị trường, kiểm soát chặt chẽ và xử lý các vi phạm pháp luật trong hoạt động kinh tế, bảo đảm sự hài hòa giữa phát triển kinh tế và phát triển xã hội.
Ba là, đến Đại hội VIII (6-1996) đã xác định nhiệm vụ đẩy mạnh công cuộc đổi mới một cách toàn diện và đồng bộ, tiếp tục phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN. Thực hiện nhất quán, lâu dài chính sách phát triển kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, lấy việc giải phóng sức sản xuất, động viên tối đa mọi nguồn lực bên trong và bên ngoài cho công nghiệp hóa, hiện đại hóa, nâng cao hiệu quả kinh tế - xã hội, cải thiện đời sống của nhân dân làm mục tiêu hàng đầu trong việc khuyến khích phát triển các thành phần kinh tế và hình thức tổ chức kinh doanh.
Từ sau Đại hội VIII, trên cơ sở phát huy những kết quả đổi mới đã đạt được; sau nhiều năm tìm tòi, nghiên cứu, thể nghiệm, tổng kết lý luận - thực tiễn, Đại hội IX (4-2001) đã chính thức đưa ra khái niệm "KTTT định hướng XHCN" ở Việt Nam.
Việc khẳng định xây dựng và phát triển nền KTTT định hướng XHCN là mô hình kinh tế tổng quát của Việt Nam trong thời kỳ quá độ lên CNXH là một bước tiến cao hơn, là đường lối chiến lược nhất quán của cách mạng. Như vậy, từ quan niệm đồng nhất kinh tế tư bản chủ nghĩa với KTTT đã đi tới quan niệm KTTT không phải là sản phẩm riêng của chủ nghĩa tư bản mà là thành quả phát triển qua nhiều phương thức sản xuất, đương nhiên đến chủ nghĩa tư bản đã làm cho KTTT phát triển đến mức điển hình. Do đó, CNXH không loại trừ, đối lập với KTTT; trái lại, hoàn toàn cần và có thể sử dụng KTTT để xây dựng chế độ mới ngày càng tiến bộ.
Nói một cách tổng quát, từ quan niệm kinh tế XHCN phải là một nền kinh tế hiện vật; kế hoạch hóa tập trung bao cấp, phải được xây dựng (một cách nóng vội, duy ý chí) ngay cả trong thời kỳ quá độ lên CNXH, đã từng bước xác định nền kinh tế cần được xây dựng là nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN, mà nói gọn là "KTTT định hướng XHCN". ở đây không phải là sự đơn giản hóa khái niệm mà là một bước phát triển mới, rất quan trọng về tư duy lý luận, thực tiễn của Đảng và nhân dân ta.
Bốn là, trên cơ sở tổng kết 20 năm đổi mới, đặc biệt, thành tựu của 5 năm (2001 - 2005), nhận thức vận dụng KTTT ở nước ta tiếp tục bước tới tầm cao mới. Đại hội X của Đảng (4-2006) khẳng định: "Thể chế KTTT định hướng XHCN bước đầu đã được xây dựng". Trong nền kinh tế hiện nay, hệ thống pháp luật, chính sách và cơ chế vận hành nền KTTT định hướng XHCN được xây dựng tương đối đồng bộ, một số loại thị trường mới hình thành, các thị trường hàng hóa, dịch vụ, thị trường sức lao động; khoa học và công nghệ; thị trường tài chính, thị trường bất động sản, thị trường quyền sử dụng đất, v.v. đều có sự phát triển để ngày càng phù hợp với cơ chế mới.
Quá trình từng bước phát triển KTTT trong nước đồng thời cũng là quá trình từng bước mở cửa, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế. Sự giữ vững định hướng XHCN của 20 năm đổi mới đã không ngăn cản, mà trái lại là cơ sở đảm bảo sức mạnh cho Việt Nam chủ động tham gia toàn cầu hóa kinh tế, hội nhập mà không bị hòa tan với thị trường kinh tế thế giới. Từ chỗ bị bao vây, cấm vận, Việt Nam mở cửa, đa dạng hóa, đa phương hóa quan hệ kinh tế đối ngoại, hợp tác hòa bình, tôn trọng chủ quyền, lợi ích kinh tế của mọi quốc gia, tổ chức kinh tế quốc tế.
Nhờ đó, Việt Nam đã lần lượt tham gia, trở thành hội viên tích cực của các tổ chức kinh tế khu vực và quốc tế ngày càng có hiệu quả cao. Chính sự giữ vững định hướng XHCN, phát triển KTTT đã làm cho Việt Nam ổn định kinh tế - xã hội, là cơ sở để thu hút đầu tư, hợp tác kinh tế của các quốc gia và tổ chức kinh tế quốc tế vào Việt Nam. Ngày nay, cánh cửa vào WTO - tổ chức kinh tế thế giới lớn nhất hành tinh - đã mở toang, đó là một trong những minh chứng đường lối kinh tế đúng đắn của Đảng và nhân dân ta đã kiên trì thực hiện thắng lợi.
2. Đặc điểm, giải pháp và những vấn đề mới đặt ra cho việc tiếp tục phát triển KTTT định hướng XHCN ở nước ta
Trước hết, cần nhận thức KTTT định hướng XHCN ở nước ta vừa có những tính chất chung của KTTT, lại vừa có tính đặc thù của Việt Nam, không thể lấy những tính chất chung của KTTT để phủ nhận định hướng XHCN trong KTTT. Theo tinh thần Văn kiện Nghị quyết Đại hội X, nắm vững định hướng XHCN trong phát triển KTTT có thể xét trên các mặt chủ yếu như sau:
+ Mục tiêu của nền KTTT ở nước ta không phải duy nhất là lợi nhuận mà là "dân giàu, nước mạnh", nhằm giải phóng và không ngừng phát triển lực lượng sản xuất xã hội, nâng cao đời sống nhân dân, đẩy mạnh xóa đói, giảm nghèo, khuyến khích mọi người vươn lên làm giàu chính đáng...
+ Thực hiện đa sở hữu, đa thành phần kinh tế, trong đó kinh tế Nhà nước giữ vai trò chủ đạo, kinh tế Nhà nước cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân; tạo điều kiện cho các chủ thể kinh tế phát huy mọi tiềm năng trong nền KTTT định hướng XHCN.
+ Thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước và từng chính sách phát triển, tăng trưởng kinh tế đi đôi với phát triển y tế, văn hóa, giáo dục..., giải quyết tốt các vấn đề xã hội vì mục tiêu phát triển con người. Thực hiện chế độ phân phối chủ yếu theo kết quả lao động, hiệu quả kinh tế, đồng thời theo mức đóng góp vốn cùng các nguồn lực khác và thông qua phúc lợi xã hội.
+ Phát huy quyền làm chủ xã hội của nhân dân, bảo đảm vai trò quản lý, điều tiết nền kinh tế của Nhà nước pháp quyền XHCN dưới sự lãnh đạo của Đảng.
Hai là, trên cơ sở nắm vững đặc trưng của KTTT định hướng XHCN phải thực hiện đồng bộ các giải pháp cơ bản:
+ Tiếp tục thực hiện nhất quán chính sách kinh tế nhiều thành phần. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng xác định nền kinh tế hiện nay bao gồm năm thành phần: kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể, kinh tế tư nhân (cá thể, tiểu chủ, tư bản tư nhân), kinh tế tư bản nhà nước và kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài2. Các thành phần kinh tế này hoạt động theo pháp luật và đều là bộ phận hợp thành quan trọng của nền KTTT định hướng XHCN. Tất cả các chủ thể kinh tế của mọi thành phần đều "bình đẳng trước pháp luật, cùng phát triển lâu dài, hợp tác và cạnh tranh lành mạnh"3.
           
+ Đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức. Đây là cách tốt nhất để phát triển lực lượng sản xuất, nâng cao năng suất. Tranh thủ thời cơ thuận lợi do bối cảnh quốc tế tạo ra và phát huy lợi thế của nước ta để rút ngắn quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước theo định hướng XHCN. Trong đó đặc biệt coi trọng công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn, giải quyết đồng bộ vấn đề nông nghiệp, nông thôn và nông dân.
+ Tiếp tục phát triển đồng bộ các yếu tố thị trường, bao gồm thị trường hàng hóa và dịch vụ, thị trường khoa học và công nghệ, thị trường hàng hóa sức lao động, thị trường tài chính; thị trường bất động sản, bao gồm thị trường quyền sử dụng đất và bất động sản gắn liền với đất, v.v.
+ Tiếp tục đổi mới các công cụ quản lý vĩ mô của Nhà nước. "Nhà nước tập trung làm tốt các chức năng định hướng sự phát triển bằng các chiến lược, qui hoạch, kế hoạch và chính sách trên cơ sở tôn trọng và tuân thủ các nguyên tắc của thị trường; tạo môi trường pháp lý thuận lợi để phát huy các nguồn lực của xã hội cho phát triển... hạn chế các rủi ro và tác động tiêu cực của KTTT..."4.
+ Bảo đảm tăng trưởng kinh tế đi đôi với tiến bộ, công bằng xã hội, nâng cao chất lượng tăng trưởng kinh tế bền vững. Trong khi khuyến khích làm giàu hợp pháp phải gắn liền với thực hiện các chương trình xóa đói, giảm nghèo. Đồng thời "cần thực hiện mọi biện pháp cần thiết, có hiệu quả để xây dựng nền quốc phòng toàn dân và an ninh nhân dân vững mạnh toàn diện; bảo vệ vững chắc độc lập chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc; bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ XHCN"5.
Ba là, để tiếp tục phát triển nền KTTT định hướng XHCN cần giải quyết tốt những vấn đề bức xúc đang đặt ra hiện nay:
+ Cần giải quyết tốt vấn đề phòng và chống tham nhũng. Toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ta đã coi tham nhũng là "quốc nạn", là kẻ thù của công cuộc đổi mới. Để định hướng đúng KTTT, cần "xử lý nghiêm minh, kịp thời, công khai cán bộ, công chức tham nhũng, không phân biệt chức vụ và địa vị xã hội còn đương chức hay đã nghỉ việc... bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của những người phát hiện và đấu tranh chống tham nhũng; đồng thời xử lý nghiêm những người bao che tham nhũng... Đẩy mạnh phối hợp và hợp tác quốc tế về phòng, chống tham nhũng"6.
+ Tập trung giải quyết tốt bảo vệ môi trường sinh thái. Không để vì  lợi nhuận, lợi ích cục bộ, thiển cận mà làm tổn hại môi sinh của nhân dân. Sự mở rộng quan hệ kinh tế quốc tế càng giúp chúng ta có nhiều kinh nghiệm xử lý những vấn đề bức xúc này.
+ Trong tiến trình mở cửa, hội nhập kinh tế thế giới, phải biết phát huy lợi thế so sánh, tạo môi trường cạnh tranh để phát triển, để phát triển bền vững, bảo đảm sự ổn định, tăng khả năng độc lập tự chủ của đất nước "... nhất thiết phải tăng cường tiềm lực và đảm bảo an ninh kinh tế, đi đôi với củng cố quốc phòng, an ninh"7. Như vậy, phát triển KTTT phải gắn chặt với bảo đảm quốc phòng, an ninh; mặt khác, chính nhờ có quốc phòng, an ninh vững chắc mà giữ được KTTT định hướng XHCN.
+ Một vấn đề hết sức quan trọng đang đặt ra để giữ định hướng XHCN trong phát triển KTTT, đó là đổi mới, chỉnh đốn, nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng.
Đây là vấn đề then chốt cho sự phát triển kinh tế - xã hội ở nước ta. Đại hội X đã coi đây là "Nhiệm vụ then chốt, có ý nghĩa sống còn đối với Đảng và sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta". Tự đổi mới, tự chỉnh đốn phải được coi là quy luật tồn tại và phát triển của Đảng.
           
Như vậy, vấn đề chống tham nhũng, giữ vững môi trường kinh tế - xã hội, vấn đề xây dựng Đảng đã và đang trở thành những vấn đề hàng đầu, bức xúc cần giải quyết, nhằm đưa cách mạng nước ta tiến lên một trình độ mới cao hơn.
 
PGS, TS. Nguyễn Đình Kháng
Viện trưởng Viện Kinh tế Chính trị học
Học viện CTQG Hồ Chí Minh
 
1- ĐCSVN- Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb CTQG, H, 2006, tr. 69.
2- Xem: Văn kiện Đại hội X,  Nxb CTQG, H, 2006, tr. 83.
3- Sđd, tr. 83.
4- Sđd, tr. 26 - 27.
5- Sđd, tr. 37.
6- Sđd, tr. 256 - 257.
7- Sđd, tr. 181.

 

Ý kiến bạn đọc (0)