Thứ Sáu, 22/11/2024, 14:02 (GMT+7)
Ấn phẩm tạp chí in
Ngày 11 tháng 1 năm 2007, nước ta chính thức thực hiện các nghĩa vụ và quyền lợi của thành viên thứ 150 của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO). Sự kiện đó không chỉ đánh dấu bước hội nhập sâu hơn, đầy đủ hơn của Việt Nam vào nền kinh tế toàn cầu; khẳng định sự thừa nhận của cộng đồng thế giới đối với những thành tựu to lớn của nhân dân ta trong 20 năm đổi mới dưới sự lãnh đạo của Đảng; chứng tỏ vị thế của Việt Nam đã lớn mạnh và phải được đối xử bình đẳng trên mọi phương diện; mà còn trực tiếp đem lại những tác động sâu sắc trên mọi lĩnh vực của đời sống kinh tế, chính trị, xã hội nước ta, đòi hỏi phải có sự nghiên cứu, nhìn nhận từ nhiều góc độ.
WTO là tổ chức thương mại lớn nhất toàn cầu, chi phối 95% thương mại hàng hóa và 95% thương mại dịch vụ toàn cầu, quyết định hầu như toàn bộ hoạt động kinh tế, thương mại và đầu tư của cả thế giới. Với các nguyên tắc chính trong hoạt động là: minh bạch hóa chính sách (rõ ràng, dễ dự đoán để các doanh nghiệp có quyền và cơ hội tiếp cận thông tin, thị trường như nhau), đối xử tối huệ quốc (đối xử cho nước này không kém hơn đối xử với nước thứ ba), đối xử quốc gia (dành cho doanh nghiệp nước ngoài sự đối xử như doanh nghiệp trong nước), mở cửa thị trường hàng hóa, dịch vụ (dỡ bỏ các rào cản phi thuế, cắt giảm thuế nhập khẩu), tạo môi trường cạnh tranh ngày càng bình đẳng (không cho phép bán phá giá và trợ cấp hàng hóa), WTO đem lại sự tự do hóa thương mại và thuận lợi hóa đầu tư cho các nước thành viên, nhờ vậy mà đưa đến nhiều cơ hội để phát triển, nhưng cũng đặt các nước thành viên còn ở trình độ kinh tế phát triển thấp trước nhiều thách thức, nhất là về chủ quyền quốc gia. Chả thế mà trên thế giới đã có những cảnh báo về “chủ quyền quốc gia trong thế giới toàn cầu hóa”. Thế nhưng, việc nhìn nhận những cơ hội và thách thức ấy đối với chủ quyền quốc gia nước ta hiện nay cũng chưa phải đã đạt được sự đồng thuận cao trong xã hội. Đã có những lạc quan quá mức khi chỉ đề cập đến khía cạnh thuần kinh tế, nhưng cũng lại có những băn khoăn, lo lắng về tương lai của chủ nghĩa xã hội (CNXH), sợ bị làn sóng WTO cuốn trôi. Vì thế, việc xem xét cơ hội và thách thức của việc gia nhập WTO đối với nền quốc phòng toàn dân (QPTD) nước ta hiện nay cũng không đơn giản, bởi sự vận động của thực tiễn gia nhập WTO còn quá mới mẻ.
Để đánh giá đúng cơ hội và thách thức của việc gia nhập WTO đối với nền QPTD nước ta, phải dựa trên tư duy mới của Đảng về tính chất, mục tiêu của nền QPTD và phương thức bảo vệ Tổ quốc (BVTQ) hiện nay. Theo đó, nền quốc phòng của ta mang tính chất toàn dân, toàn diện, độc lập, tự chủ, tự cường và ngày càng hiện đại dưới sự lãnh đạo của Đảng với mục tiêu không chỉ là giữ vững độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, mà còn là bảo vệ Đảng, Nhà nươớc, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa (XHCN); bảo vệ an ninh chính trị, kinh tế, tư tưởng- văn hóa và an ninh xã hội. Phương thức BVTQ cũng phải bằng sức mạnh tổng hợp của đất nước, cả về kinh tế, chính trị, văn hóa- tư tưởng, quốc phòng- an ninh (QP-AN), đối ngoại… với các biện pháp phi vũ trang là chính. Do vậy, nghiên cứu cơ hội và thách thức của việc gia nhập WTO đối với nền QPTD không thể chỉ xem xét những tác động trực tiếp tới lĩnh vực quân sự, mà cần phải tính cả những tác động gián tiếp trong các lĩnh vực: kinh tế, chính trị, xã hội, văn hóa- tư tưởng, v.v, cấu thành nên lực lượng và thế trận của nền QPTD. Thêm nữa, cũng cần chú ý đến sự chi phối của các quan hệ tư bản chủ nghĩa (TBCN) trong tổ chức này, bởi lực lượng chi phối WTO là các quốc gia TBCN phát triển; đồng thời, cơ chế hoạt động của nó dựa trên lý thuyết của chủ nghĩa tự do mới, một lý thuyết kinh tế tư sản hiện đại, luôn coi trọng thị trường và kinh tế tư nhân, còn sự can thiệp của nhà nước chỉ ở mức tối thiểu. Vì vậy, điều quan trọng khi xem xét cơ hội và thách thức của việc gia nhập WTO hiện nay là phải xem sự kiện đó sẽ tác động thế nào đến việc thực hiện những mục tiêu của CNXH, bởi vào WTO chỉ là phương tiện, chứ không phải là mục tiêu của công cuộc đổi mới. Với cách tiếp cận đó, có thể khẳng định: gia nhập WTO, nền QPTD nước ta sẽ có cả cơ hội to lớn, lẫn thách thức không nhỏ. Về cơ hội:
Thứ nhất, do được tiếp cận thị trường rộng lớn của thế giới, trong đó có những nền kinh tế lớn, chúng ta có khả năng phát huy lợi thế so sánh để khai thác có hiệu quả hơn các nguồn lực trong nước, đẩy mạnh xuất khẩu, tạo thêm nhiều việc làm cho nhân dân, duy trì sự tăng trưởng kinh tế cao và ổn định. Nhờ đó, đời sống của nhân dân cũng như các nguồn lực kinh tế bảo đảm cho quốc phòng được cải thiện, lòng tin của nhân dân vào đường lối đổi mới được củng cố; tiềm lực kinh tế, tiềm lực chính trị-tinh thần của nền QPTD được tăng cường. Chính những thành tựu phát triển kinh tế-xã hội của năm 2006 với tốc độ tăng trưởng GDP đạt 8,17% và kim ngạch xuất khẩu gần ngưỡng 40 tỷ USD đang là tín hiệu thuận khẳng định cho xu thế đó.
Thứ hai, với việc thực hiện công khai, minh bạch các thiết chế quản lý theo quy định của WTO, môi trường kinh doanh nước ta sẽ hấp dẫn các nhà đầu tư của các nền kinh tế tri thức đem vốn, công nghệ “nguồn” vào nước ta để sản xuất, kinh doanh. Đây là cơ hội cho chúng ta tranh thủ các yếu tố về vốn, khoa học-công nghệ (KHCN) hiện đại, kinh nghiệm quản lý tiên tiến của thế giới để nâng cao tiềm lực KHCN và sức mạnh kinh tế của đất nước. Đáng chú ý là, với sự phát triển của kinh tế tri thức, trong rất nhiều lĩnh vực đầu tư, ranh giới giữa công nghệ dân dụng và công nghệ quân sự đã bị "mờ" đi tương đối; nếu có chiến lược tốt, ta có thể khai thác được nhiều loại công nghệ lưỡng dụng phục vụ cho việc phát triển công nghiệp quốc phòng và khoa học- kỹ thuật (KHKT) quân sự nước nhà. Những công nghệ lưỡng dụng của ngành công nghệ thông tin, điện tử, viễn thông, xe máy, xây dựng, giao thông, hóa chất, cơ khí chính xác, v.v, nếu được chú ý khai thác sẽ góp phần trực tiếp cải thiện cơ sở vật chất của nền QPTD, đáp ứng nhu cầu huấn luyện và sẵn sàng chiến đấu của lực lượng vũ trang.
Thứ ba, tham gia vào WTO, tính tùy thuộc lẫn nhau giữa nước ta với các nước thành viên sẽ tăng lên. Nhiều vấn đề QP-AN của mỗi quốc gia phải tính đến sự hợp tác song phương và đa phương. Thông qua hợp tác về QP-AN ở các mức độ khác nhau, chúng ta có điều kiện trao đổi thông tin, tăng cường hiểu biết lẫn nhau, qua đó mà củng cố lòng tin, giảm nguy cơ đối đầu quân sự. Thêm nữa, chúng ta có cơ hội tham khảo, học tập kinh nghiệm xây dựng quốc phòng của các nước, cập nhật thông tin thị trường vũ khí thế giới cùng những tri thức khoa học quân sự mới, tìm hiểu chỗ mạnh, yếu của đối tượng (tiềm tàng), v.v, để phục vụ việc mua sắm trang bị, hợp tác đào tạo cán bộ, phát triển KHKT và nghệ thuật quân sự, đáp ứng nhu cầu đối phó với các kiểu chiến tranh trong tương lai.
Thứ tư, với vị thế bình đẳng như các nước thành viên khác của WTO trong hoạch định các chính sách thương mại toàn cầu, nước ta có cơ hội thực hiện chiến lược đan cài, cân bằng lợi ích, tạo thế có lợi cho việc xây dựng tiềm lực và thế trận quốc phòng, cũng như lợi thế trong các tình huống phải đấu tranh quốc phòng, góp phần duy trì sự ổn định khu vực và trong nước để phát triển.
Những cơ hội nói trên là to lớn, nhưng chỉ là tiềm năng. Việc khai thác những cơ hội đó được nhiều hay ít còn tùy thuộc vào nội lực của đất nước, vào bản lĩnh và tài năng của các chủ thể xây dựng nền QPTD; bởi lẽ, vì lợi ích quốc gia và do sự khác biệt về chế độ chính trị, các nước tư bản có nền kinh tế, KHCN phát triển trong WTO không dễ cho chúng ta khai thác những thành tựu kinh tế, KHCN của họ phục vụ nhiệm vụ quốc phòng. Trong khi đó, thách thức đối với nền QPTD khi ta đã là thành viên của WTO cũng rất lớn; bắt nguồn không chỉ do ta còn là một nước đang phát triển ở trình độ thấp, chưa được công nhận là nền kinh tế thị trường trong 12 năm nữa, quản lý nhà nước còn nhiều yếu kém, doanh nghiệp và đội ngũ doanh nhân còn nhỏ bé (hơn 90% số doanh nghiệp thuộc loại vừa và nhỏ), lại phải cam kết gia nhập WTO với điều kiện của “WTO cộng”; mà quan trọng hơn là ở sự thách thức về chế độ chính trị, đặc biệt trong điều kiện các thế lực thù địch đã thay đổi chiến lược chống phá ta từ biện pháp vũ trang xâm lược là chính, sang đẩy mạnh “diễn biến hòa bình” (DBHB), kết hợp với bạo loạn, lật đổ nhằm xóa bỏ chế độ XHCN ở nước ta. Có thể nêu lên những thách thức chính sau:
Một là, chúng ta phải chấp nhận những định chế sẵn có, thậm chí những điều kiện khắt khe hơn (do gia nhập sau) của WTO, mà những định chế ấy thường do các nước tư bản phương Tây chi phối. Trong nhiều trường hợp, việc kết hợp giữa thực hiện các cam kết của WTO với giữ vững định hướng XHCN trên các lĩnh vực không hề đơn giản. Vai trò của doanh nghiệp nhà nước (DNNN) trong các hoạt động thương mại sẽ bị giảm đáng kể, để nhường thị phần cho các doanh nghiệp tư nhân (DNTN) và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (ĐTNN), kể cả việc cung cấp một số mặt hàng thiết yếu. Nếu không tính toán kỹ, vấn đề bảo đảm kinh tế cho quốc phòng, nhất là trong các thời điểm nhạy cảm, ở các địa bàn chiến lược có thể sẽ không còn giữ được chủ động. Những đòi hỏi về tỷ lệ nội địa hóa, về chuyển giao công nghệ phải bãi bỏ làm cho chúng ta không dễ khai thác những công nghệ lưỡng dụng phục vụ cho quốc phòng. Những yêu cầu về xây dựng các tổ chức Đảng và tổ chức quần chúng, tổ chức và duy trì hoạt động của lực lượng tự vệ, quản lý và huấn luyện quân dự bị động viên, chuẩn bị các dây chuyền động viên công nghiệp trong các DNTN và doanh nghiệp có vốn ĐTNN, cũng như việc triển khai nhiều vấn đề về quốc phòng khác trong các doanh nghiệp và khu kinh tế, khu công nghiệp có vốn ĐTNN nói riêng, xây dựng thế trận quốc QP-AN trên phạm vi cả nước nói chung sẽ khó thêm.
Hai là, do phải mở cửa thị trường, sự cạnh tranh quyết liệt cả ở 3 cấp độ: hàng hóa- dịch vụ, doanh nghiệp và nhà nước sẽ làm gia tăng nguy cơ phá sản ở hàng loạt doanh nghiệp, trước hết là các DNNN và khu vực nông nghiệp, trong đó những doanh nghiệp quân đội tham gia làm kinh tế cũng không dễ có nhiều đơn đặt hàng, dẫn tới tỷ lệ thất nghiệp cả ở thành thị lẫn nông thôn sẽ tăng lên, phân hóa giàu nghèo sẽ mạnh hơn. Thêm nữa, việc giữ vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước, từng bước thu hẹp khoảng cách giàu- nghèo, thực hiện các vấn đề an sinh xã hội… nhằm giải quyết những vấn đề hậu tham gia WTO nảy sinh, nếu xử lý không tốt, sẽ đều là những vấn đề “tiền QP-AN”.
Ba là, chúng ta phải chấp nhận những chấn động bất thường của kinh tế thế giới và độ dày của những vụ tranh chấp thương mại. Với điểm xuất phát thấp về trình độ phát triển kinh tế, tiềm lực có hạn, hệ thống pháp luật chưa hoàn chỉnh, kinh nghiệm vận hành nền kinh tế thị trường chưa nhiều, đội ngũ luật sư vừa thiếu, vừa yếu, thì nền kinh tế rất dễ bị tổn thương. Đáng chú ý là các thế lực thù địch sẽ triệt để lợi dụng những khó khăn do các biến động bất thường đó để thúc đẩy diễn ra khủng hoảng kinh tế- xã hội trong nước. Nếu chúng ta chủ quan, mất cảnh giác, nền kinh tế có thể không bị tan rã, nhưng sự mất ổn định về chính trị thì có thể diễn ra.
Bốn là, những cam kết về tự do hóa thương mại, thuận lợi hóa đầu tư sẽ đi kèm với thuận lợi hóa việc dịch chuyển nguồn nhân lực. Bên cạnh nguy cơ “chảy máu chất xám”, các thế lực thù địch sẽ triệt để lợi dụng cơ hội này để thâm nhập nước ta dưới áo khoác các nhà đầu tư, du lịch, tổ chức phi chính phủ để móc nối, chỉ đạo các thế lực phản động, bất mãn trong nước đẩy mạnh thực hiện chiến lược DBHB, kích động gây rối, bạo loạn; đồng thời gieo rắc những quan điểm và tư tưởng sai trái, văn hoá phẩm độc hại nhằm giành giật thế hệ trẻ với âm mưu xoá bỏ CNXH trên đất nước ta. Sự suy giảm niềm tin vào CNXH, lẫn lộn về đối tượng-đối tác; phai nhạt ý thức quốc gia-dân tộc, giảm sút ý thức quốc phòng trong một bộ phận nhân dân, trước hết là trong thế hệ trẻ có nguy cơ tăng thêm. Tất cả sẽ là tác nhân làm suy giảm tiềm lực chính trị- tinh thần của nền QPTD.
Cơ hội và thách thức nói trên khó có thể cân đong nhiều, ít. Nhưng biết chắc rằng, cơ hội không tự biến thành lực lượng vật chất để tăng cường được sức mạnh quốc phòng; nhưng thách thức thì tự nó đến và tạo nên sức ép trực tiếp, bởi ta phải thực hiện các cam kết với WTO theo lộ trình đã ký. Cả cơ hội và thách thức đều có thể chuyển hóa lẫn nhau và cùng đòi hỏi sự nỗ lực rất lớn của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân để khai thác cơ hội, vượt qua thách thức, biến thách thức thành cơ hội mới để tiến lên. Nhằm tranh thủ được nhiều cơ hội, hạn chế bớt những bất lợi do thách thức đem lại, cần giải quyết đồng bộ một số nội dung chủ yếu sau đây:
- Phổ biến, tuyên truyền sâu rộng trong mọi tầng lớp nhân dân về bản chất của WTO và những định chế pháp lý, những cam kết của Việt Nam, cùng những cơ hội và thách thức của việc gia nhập WTO đối với mọi ngành, mọi lĩnh vực có tính đến việc thực hiện nhiệm vụ QP-AN; giải thích rõ chủ trương và biện pháp chủ động tham gia WTO của Đảng và Nhà nước để tạo sự thống nhất nhận thức, củng cố niềm tin vào khả năng làm chủ quá trình tham gia WTO của chúng ta. Qua đó, nâng cao trách nhiệm của các cấp, các ngành trong việc chủ động tìm biện pháp vượt qua thách thức, đề cao cảnh giác, không mơ hồ, ảo tưởng, khắc phục xu hướng chạy theo lợi ích kinh tế đơn thuần, giữ vững nguyên tắc vừa hợp tác vừa đấu tranh trong quá trình thực hiện các cam kết với WTO.
- Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng và sự quản lý của Nhà nước đối với lĩnh vực quốc phòng; đổi mới hơn nữa tư duy lý luận về xây dựng nền QPTD trong tình hình mới; chủ động nghiên cứu, điều chỉnh các hoạt động quốc phòng từ Trung ương đến địa phương, cơ sở, đảm bảo các hoạt động quốc phòng sớm thích ứng với những thay đổi của các hoạt động kinh tế- xã hội do phải tuân thủ các quy định của WTO. Đặc biệt quan tâm việc sửa đổi, bổ sung, hoàn chỉnh hệ thống pháp luật và cơ chế, chính sách liên quan đến QP-AN để đảm bảo tính pháp lý cho các hoạt động quốc phòng khi thực hiện các cam kết với WTO.
- Tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng công tác giáo dục, bồi dưỡng kiến thức QP-AN cho các đối tượng; quan tâm đặc biệt việc giáo dục lòng yêu nước, ý thức tự tôn dân tộc, nhất là trong thế hệ trẻ; làm cho mọi ngơười dân hiểu rõ tư duy mới về mục tiêu và phương thức BVTQ ngày nay, sự thống nhất biện chứng giữa bảo vệ Tổ quốc về mặt chủ quyền, lãnh thổ với bảo vệ Đảng, bảo vệ chế độ XHCN; thống nhất nhận thức về đối tơượng và đối tác theo đúng tinh thần Nghị quyết Trung ương 8 (khóa IX). Trên cơ sở đó, nâng cao ý thức, trách nhiệm trong thực hiện nhiệm vụ QP-AN, ý thức kết hợp kinh tế với QP-AN và đối ngoại phù hợp với điều kiện sống, học tập, làm việc của mỗi người dân.
- Đẩy mạnh đào tạo nguồn nhân lực nhằm đáp ứng nguồn nhân lực chất lượng cao cho tất cả các lĩnh vực, kể cả lĩnh vực quốc phòng; chú trọng đào tạo toàn diện cả về năng lực chuyên môn, trình độ ngoại ngữ, sự hiểu biết luật pháp quốc tế lẫn bản lĩnh chính trị và đạo đức nghề nghiệp để người lao động, dù làm việc ở lĩnh vực nào, đều có ý thức và năng lực khai thác cơ hội, bảo vệ có hiệu quả lợi ích quốc gia-dân tộc trong quá trình thực hiện các cam kết với WTO.
- Chăm lo xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, đủ sức thực hiện có hiệu quả các hoạt động hợp tác quốc tế về QP-AN khi có yêu cầu và thực sự là lực lượng nòng cốt bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ; bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và công cuộc đổi mới trong mọi tình huống, góp phần quan trọng giữ vững môi trường ổn định cho quá trình thực hiện các cam kết với WTO diễn ra chủ động và hiệu quả.
Trên cơ sở nhận thức đúng bản chất của WTO và đặc điểm của xu thế toàn cầu hóa kinh tế hiện nay, thực hiện đồng bộ các giải pháp về kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, QP-AN, v.v, dưới sự lãnh đạo sáng suốt và bản lĩnh vững vàng của Đảng, với sự chủ động chuẩn bị về lộ trình hội nhập kinh tế quốc tế thời gian qua, đất nước ta nhất định sẽ tận dụng được nhiều cơ hội và vượt qua được các thách thức khi thực hiện nghĩa vụ thành viên của WTO để củng cố và tăng cường sức mạnh nền QPTD, hiện thực hóa các mục tiêu của CNXH.
Nguyễn Ngọc Hồi
Trao đổi ý kiến giữa Tạp chí quốc phòng toàn dân với bạn đọc, cộng tác viên Quân khu 5 12/12/2011
Nghệ thuật tổ chức, sử dụng lực lượng quân sự trong những ngày đầu kháng chiến toàn quốc 12/12/2011
“Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến” với việc xây dựng nền quốc phòng toàn dân trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc hiện nay 12/12/2011
Một số vấn đề về nghệ thuật chiến dịch phòng ngự trong chiến tranh bảo vệ Tổ quốc 12/12/2011
Hưng Yên không ngừng nâng cao hiệu quả công tác giáo dục quốc phòng 12/12/2011
Kết quả và kinh nghiệm tiến hành công tác phổ biến, giáo dục pháp luật của lực lượng vũ trang Quân khu 5 12/12/2011
Đoàn B.90 nâng cao chất lượng xây dựng lực lượng dự bị động viên - một số kinh nghiệm bước đầu 12/12/2011
Trường Quân sự Binh đoàn Cửu Long phấn đấu nâng cao chất lượng giáo dục, đào tạo và huấn luyện 11/12/2011
Kết hợp kinh tế với quốc phòng, tạo lập thế trận phòng thủ vững chắc trên địa bàn tỉnh ven biển Thái Bình 11/12/2011
Trung tâm Nhiệt đới Việt - Nga phát huy nội lực, mở rộng hợp tác, nâng cao hiệu quả hoạt động 11/12/2011