Thứ Bảy, 23/11/2024, 00:48 (GMT+7)
Ấn phẩm tạp chí in
Những năm gần đây, cùng với tập trung nỗ lực cho phát triển kinh tế-xã hội, Ấn Độ cũng rất chú trọng củng cố quốc phòng, xây dựng lực lượng vũ trang (LLVT) tinh nhuệ, hiện đại; coi đây là hai nhiệm vụ có tầm chiến lược trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước, trong bối cảnh tình hình khu vực và thế giới có nhiều diễn biến phức tạp. Theo các nhà lãnh đạo Ấn Độ, quan điểm chỉ đạo trong đường lối quốc phòng, quân sự của Ấn Độ là phòng thủ, bảo vệ đất nước. Nó được cụ thể hóa nhất quán trong đường lối, chính sách quốc phòng, trong học thuyết quân sự, trong thực tiễn xây dựng LLVT và trong đường lối đối ngoại của nước này. Ấn Độ thực hiện đươờng lối, chính sách quốc phòng, quân sự độc lập, tự chủ, nhằm bảo vệ độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của đất nước, bảo vệ an ninh, lợi ích quốc gia; đồng thời, góp phần bảo vệ hoà bình, ổn định khu vực và quốc tế. Chính phủ Ấn Độ chú trọng tăng cường, mở rộng quan hệ hợp tác nhiều mặt với các nước và quốc tế, nhất là các nước, các tổ chức trong khu vực, các nước có quan hệ truyền thống, trên nguyên tắc tuân thủ luật pháp quốc tế, Hiến chương Liên hợp quốc; tôn trọng độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, không can thiệp nội bộ của nhau; không đe dọa sử dụng vũ lực chống nươớc khác, nhằm tạo dựng và giữ vững môi trường hoà bình, ổn định, hợp tác cùng phát triển. Đối với các tranh chấp giữa Ấn Độ và các nước về chủ quyền lãnh thổ trên đất liền, trên biển, đảo do lịch sử để lại, Chính phủ Ấn Độ chủ trương “khép lại quá khứ, hướng tới sự thịnh vượng chung”, triển khai nhiều biện pháp nhằm tăng cường sự hiểu biết, tin cậy, cùng nhau đối thoại hoà bình, tìm ra giải pháp thích hợp để giải quyết các bất đồng, mâu thuẫn. Nhờ đó, Ấn Độ đã cải thiện và mở rộng quan hệ hợp tác với nhiều nước trong khu vực và quốc tế, chuyển nhiều quan hệ vốn là “thù địch”, “đối đầu” trước đây sang “đối thoại”, “hợp tác toàn diện”, rất có lợi cho phát triển kinh tế, củng cố quốc phòng, đảm bảo an ninh đất nước. Nổi bật là, Ấn Độ và Pa-ki-xtan đã nhất trí quan điểm giải quyết xung đột giữa hai nước, mà trước hết là giải quyết tranh chấp chủ quyền ở Ca-sơ-mia, bằng đàm phán hoà bình; khẳng định, đây là giải pháp duy nhất đáp ứng được lợi ích của cả hai nước. Dư luận khu vực và quốc tế đánh giá cao, coi đây là một bước tiến có ý nghĩa lịch sử, mở ra triển vọng giải quyết hoà bình “điểm nóng” này, tạo cơ sở để hai nước tiến tới bình thường hoá quan hệ, mở rộng hợp tác cùng phát triển; góp phần tích cực cho hoà bình, ổn định khu vực và quốc tế. Ấn Độ cùng với Nga, Trung Quốc, Nhật Bản cũng đang tích cực cải thiện, nâng tầm quan hệ hợp tác, tương xứng với tiềm năng và lợi ích của các bên. Quan hệ giữa Ấn Độ với Mỹ, Tổ chức hợp tác Thượng Hải (SCO), EU, ASEAN... cũng đang được mở rộng và phát triển trên nhiều mặt... Phải nói rằng, với chính sách cải cách, mở cửa, hội nhập, hợp tác khu vực và quốc tế phù hợp, Ấn Độ đã thành công và đạt được những thành tựu hết sức quan trọng. Liên tục nhiều năm qua, Ấn Độ luôn giữ được tốc độ tăng trưởng kinh tế cao, ở mức 6% -7% (năm 2005 đạt 7,5%). Năm 2005, GDP đạt 700 tỷ USD; năm 2006, GDP đạt 759,4 tỷ USD; bình quân đạt gần 4.000 USD/ 1 đầu người. Uy tín và vị thế của Ấn Độ không ngừng được nâng cao ở khu vực và trên trường quốc tế. Nhiều chuyên gia quốc tế đã nhận định, với đà tăng trưởng mạnh như hiện nay, trong tương lai không xa, Ấn Độ sẽ trở thành một cường quốc của thế giới. Tuy nhiên, Ấn Độ cũng đang phải đối mặt với nhiều thách thức, nguy cơ đối với an ninh và sự phát triển. Nguy cơ xung đột quân sự từ những mâu thuẫn dân tộc, sắc tộc, tôn giáo, tranh chấp chủ quyền biên giới, lãnh thổ..., vẫn đang tiềm ẩn; các hoạt động khủng bố do các tổ chức Hồi giáo cực đoan ở Ca-sơ-mia thực hiện cũng đang gây nhức nhối cho xã hội Ấn Độ. Hơn nữa, một số cường quốc phương Tây tiến hành chính sách hai mặt: vừa hợp tác vừa kiềm chế, ngặn chặn Ấn Độ trên các lĩnh vực... Tình hình đó đặt ra cho nhiệm vụ quốc phòng, an ninh của Ấn Độ những yêu cầu mới to lớn hơn; đòi hỏi LLVT Ấn Độ phải xây dựng hiện đại, có trình độ và khả năng sẵn sàng chiến đấu và chiến đấu cao. Thủ tướng Ấn Độ M. Xinh đã nêu rõ, trong bối cảnh tình hình quốc tế, khu vực còn nhiều phức tạp như hiện nay, Ấn Độ phải xây dựng một quân đội hiện đại, đủ sức đối phó hiệu quả với các mối đe dọa, bảo vệ vững chắc an ninh và lợi ích của đất nước. Kế hoạch quân sự đến năm 2020 của Bộ Quốc phòng (BQP) Ấn Độ đã tập trung vào một số hướng ưu tiên:
1- Xây dựng quân đội tinh nhuệ có cơ cấu tổ chức hợp lý, được trang bị và khả năng tác chiến hiện đại, đáp ứng yêu cầu của chiến tranh cục bộ công nghệ cao. BQP Ấn Độ coi việc điều chỉnh tổ chức quân đội từ loại hình quy mô số lượng sang loại hình quy mô chất lượng, kết cấu biên chế tinh gọn, hợp lý, theo hướng tăng tỷ lệ các quân chủng, binh chủng có hàm lượng kỹ thuật cao, tạo ra thực lực tác chiến mới, nhất là khả năng cơ động cao và tác chiến linh hoạt, đáp ứng yêu cầu của chiến tranh cục bộ công nghệ cao là một nội dung quan trọng trong xây dựng quân đội hiện đại. Việc điều chỉnh được tiến hành thận trọng, quản lý chặt chẽ theo lộ trình và bước đi thích hợp, phù hợp với yêu cầu nhiệm vụ quân sự, quốc phòng và xu hướng phát triển quân sự trên thế giới. Năm 2005, quân đội Ấn Độ đã cắt giảm 7 lữ đoàn bộ binh. Đến nay, lực lượng thường trực có khoảng 1,34 triệu quân; lục quân khoảng 1,1 triệu quân; không quân có trên 17 vạn quân; hải quân có trên 5,5 vạn quân. Thời gian qua, Ấn Độ đã đầu tư hàng chục tỷ đô-la mua sắm tầu thuyền, máy bay hiện đại, nhằm tăng cường khả năng tác chiến cho lực lượng không quân và hải quân. Thời gian tới, Ấn Độ sẽ thành lập một căn cứ hải quân ở khu vực phía Nam để bảo vệ tuyến đường biển thông thương giữa Ấn Độ với các nước Đông Nam á và kiểm soát vịnh Ben-gan; trang bị cho hải quân 1 tầu sân bay và 6 tầu chiến thế hệ mới, nhằm nâng cao khả năng tác chiến mặt nước trên biển xa; trang bị cho không quân 126 máy bay đa năng, 8 máy bay trinh sát, 16 máy bay lên thẳng, để nâng cao khả năng tiến công và vận tải chiến lược. Xây dựng lực lượng phản ứng nhanh của lục quân theo hướng liên hợp, có khả năng phản ứng linh hoạt, là lực lươợng xung kích trong các tình huống quân sự đột xuất. Lục quân cũng sẽ tăng thêm biên chế, trang bị, vũ khí hiện đại đối với các binh chủng pháo binh, thiết giáp, tác chiến điện tử. Xây dựng các đơn vị tên lửa đặc chủng, hạt nhân chiến lược.
2- Tăng cường đầu tư phát triển khoa học- công nghệ (KH-CN) quân sự, hiện đại hoá ngành công nghiệp quốc phòng (CNQP), đủ khả năng tự cung cấp vũ khí, trang bị và phục vụ cho nhu cầu dân sinh và xuất khẩu. Ấn Độ coi việc xây dựng ngành CNQP hiện đại, đủ sức nghiên cứu, chế tạo, sản xuất các vũ khí, trang bị công nghệ cao, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ quốc phòng, quân sự là nền tảng vững chắc để xây dựng quân đội tinh nhuệ, hiện đại. Ấn Độ thực hiện nhiều biện pháp cải cách về cơ cấu tổ chức, đổi mới phươơng thức quản lý, chú trọng hoạch định chiến lơược phát triển CNQP phù hợp với yêu cầu phòng thủ quốc gia, khả năng kinh tế, tiềm lực KH-CN của đất nước và sự phát triển KH-CN ở khu vực và quốc tế. Trong xây dựng ngành CNQP, chú trọng phương châm “tự lực tự cường”, khai thác và phát huy những thế mạnh KH-CN có nhiều tiềm năng của mình là chính, kết hợp với mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế, chuyển giao công nghệ với nơơuớc ngoài. Trong nghiên cứu phát triển, chú trọng nghiên cứu rộng, nhưng sản xuất có trọng tâm, trọng điểm; nghiên cứu phát triển, chuyển giao các công nghệ then chốt, công nghệ mang tính “chìa khoá”, từ đó nghiên cứu phát triển rộng; kết hợp nghiên cứu phát triển mới với cải tiến nâng cấp các vũ khí, trang bị hiện có. Hiện nay, ngành CNQP Ấn Độ có hàng trăm cơ sở CNQP hiện đại, tổ chức thành 3 nhóm: nhóm chuyên sản xuất vũ khí; nhóm sản xuất hàng quốc phòng; nhóm sản xuất hàng lưỡng dụng và dân sinh. Cơ quan nghiên cứu phát triển quốc phòng (DRDO)- nòng cốt trong lĩnh vực KH-CN quân sự- có 50 phòng thí nghiệm, 70 viện nghiên cứu và 150 trung tâm KH-CN, với hơn 30.000 nhân viên, 6.000 nhà khoa học, kỹ sư, cán bộ quản lý... Hiện nay, ngành CNQP Ấn Độ đủ khả năng đảm nhiệm tới 75% nhu cầu vũ khí, trang bị cho quân đội, chế tạo nhiều loại vũ khí được đánh giá là hiện đại của thế giới, như các thiết bị phầm mềm máy tính, tên lửa đạn đạo mang đầu đạn hạt nhân, tầu chiến..., (Một số loại vũ khí trong đó được nhiều nước Tây Âu ưa chuộng nhập khẩu). Ấn Độ hiện là trung tâm xuất khẩu vũ khí thông thường của thế giới. Trong hợp tác quốc tế, Ấn Độ chú trọng chiến lược nhập khẩu, chuyển giao các công nghệ mũi nhọn, từ đó cải tiến, nghiên cứu phát triển tạo “đột phá” về công nghệ. Đồng thời, chú trọng mở rộng quan hệ với nhiều đối tác khác nhau, để phát triển nhanh và hạn chế sự phụ thuộc vào công nghệ nhập ngoại.
3- Cải cách nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác giáo dục-đào tạo, huấn luyện trong quân đội, xây dựng đội ngũ sĩ quan, nhân viên chuyên môn kỹ thuật có trình độ và tố chất cao. Ấn Độ cho rằng, trong chiến tranh công nghệ cao, con người vẫn là nhân tố quyết định. Quân đội càng hiện đại thì quân nhân càng phải giỏi. Ấn Độ chú trọng xây dựng chiến lược phát triển nguồn nhân lực có chất lượng cho quân đội; trong đó, chú trọng hiện đại hoá hệ thống các học viện, nhà trường quân đội; hoàn thiện hệ thống tài liệu, giáo trình, giáo khoa; cải tiến nội dung, chương trình, đổi mới phương pháp giảng dạy, học tập, chú trọng các phương pháp nâng cao khả năng tư duy, vận dụng sáng tạo kiến thức trong thực tiễn cho học viên. Trong huấn luyện, chú trọng xây dựng hệ thống thao trường, bãi tập hiện đại, nâng cao các yêu cầu, tiêu chuẩn, chú trọng huấn luyện tổng hợp, huấn luyện chỉ huy, hiệp đồng tác chiến trong các chiến dịch tác chiến liên hợp và các nhiệm vụ quân sự khác trong thời bình. Chăm lo xây dựng đội ngũ sĩ quan, nhân viên chuyên môn có tố chất về chính trị, tinh thần, thể lực, năng lực trình độ chuyên môn ngang tầm yêu cầu nhiệm vụ. Chú trọng đào tạo các cán bộ, chuyên gia đầu ngành, có trình độ cao về khoa học quân sự, đủ khả năng tham mưu trong việc hoạch định chiến lược, chính sách quốc phòng, quân sự; tổ chức, chỉ huy xây dựng quân đội Ấn Độ tinh nhuệ, hiện đại.
Việt Nam và Ấn Độ có quan hệ hữu nghị truyền thống. Từ khi thiết lập quan hệ ngoại giao (26-7-1956) đến nay, Chính phủ, nhân dân và quân đội hai nước đã hết sức chăm lo củng cố, đưa quan hệ hai nước không ngừng phát triển cả bề rộng và chiều sâu. Chính phủ, nhân dân Việt Nam luôn trân trọng và biết ơn sự ủng hộ và giúp đỡ của Chính phủ và nhân dân Ấn Độ đã dành cho Việt Nam trong chiến tranh giải phóng dân tộc trước đây, cũng như trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc XHCN hiện nay. Trong thời gian tới, Chính phủ, nhân dân và quân đội hai nước tiếp tục đẩy mạnh hợp tác toàn diện, nâng tầm quan hệ đối tác chiến lược lên tầm cao mới, đáp ứng nguyện vọng và lợi ích của nhân dân hai nước, góp phần tích cực vào sự nghiệp đổi mới xây dựng và bảo vệ Tổ quốc của mỗi nước, cho hoà bình, ổn định và sự phát triển của khu vực và thế giới.
Đồng Đức
Trao đổi ý kiến giữa Tạp chí quốc phòng toàn dân với bạn đọc, cộng tác viên Quân khu 5 12/12/2011
Nghệ thuật tổ chức, sử dụng lực lượng quân sự trong những ngày đầu kháng chiến toàn quốc 12/12/2011
“Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến” với việc xây dựng nền quốc phòng toàn dân trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc hiện nay 12/12/2011
Một số vấn đề về nghệ thuật chiến dịch phòng ngự trong chiến tranh bảo vệ Tổ quốc 12/12/2011
Hưng Yên không ngừng nâng cao hiệu quả công tác giáo dục quốc phòng 12/12/2011
Kết quả và kinh nghiệm tiến hành công tác phổ biến, giáo dục pháp luật của lực lượng vũ trang Quân khu 5 12/12/2011
Đoàn B.90 nâng cao chất lượng xây dựng lực lượng dự bị động viên - một số kinh nghiệm bước đầu 12/12/2011
Trường Quân sự Binh đoàn Cửu Long phấn đấu nâng cao chất lượng giáo dục, đào tạo và huấn luyện 11/12/2011
Kết hợp kinh tế với quốc phòng, tạo lập thế trận phòng thủ vững chắc trên địa bàn tỉnh ven biển Thái Bình 11/12/2011
Trung tâm Nhiệt đới Việt - Nga phát huy nội lực, mở rộng hợp tác, nâng cao hiệu quả hoạt động 11/12/2011