QPTD -Chủ Nhật, 11/12/2011, 22:15 (GMT+7)
Đẩy mạnh nghiên cứu, phát triển khoa học nghệ thuật quân sự Việt Nam đáp ứng nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng dự báo tình hình những năm sắp tới “Khoa học và công nghệ sẽ có bước tiến nhảy vọt và những đột phá lớn. Những cuộc chiến tranh cục bộ, xung đột vũ trang, xung đột dân tộc, tôn giáo, chạy đua vũ trang.... tiếp tục diễn ra ở nhiều nơi với tính chất ngày càng phức tạp. Các mâu thuẫn lớn của thời đại vẫn rất gay gắt”1. Cùng với sự phát triển của khoa học công nghệ, khoa học quân sự nói chung và khoa học nghệ thuật quân sự (NTQS) nói riêng cũng sẽ có những phát triển mạnh mẽ. Các thế lực thù địch đã và đang thay đổi chiến lược bằng “diễn biến hòa bình”, bạo loạn lật đổ, sử dụng phương thức phi vũ trang là chủ yếu, kết hợp với răn đe về quân sự hòng làm suy yếu và lật đổ chế độ ta dưới mọi hình thức. Song nếu chiến tranh bảo vệ Tổ quốc xảy ra sẽ là cuộc chiến tranh chống lại kẻ thù xâm lược có vũ khí, trang bị công nghệ cao với nhiều thủ đoạn tác chiến mới.

Những đặc điểm và xu thế đó là những khó khăn, thách thức đối với nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa (XHCN). Do đó, cùng với việc phát huy ưu thế về chính trị-tinh thần của cuộc chiến tranh chính nghĩa do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo, đòi hỏi chúng ta phải đẩy mạnh nghiên cứu, tạo bước phát triển mạnh mẽ hơn nữa về khoa học NTQS. Đặc biệt là phát huy chức năng nghiên cứu khoa học của các viện, học viện, nhà trường trong quân đội.

           
Những năm qua, nhất là từ khi thực hiện đường lối đổi mới của Đảng, công tác nghiên cứu, phát triển khoa học NTQS Việt Nam (bao gồm chiến lược, chiến dịch và chiến thuật) đã đạt được kết quả quan trọng. Điểm nổi bật là đã thực hiện tốt công tác tổng kết NTQS hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, cứu nước; phát triển  lý luận về phương thức tiến hành tác chiến chiến lược, xây dựng chiến lược quốc phòng trong tình hình mới. Trong đó, đã coi trọng phát triển lý luận về xây dựng khu vực phòng thủ và dự báo các loại hình chiến tranh. Đồng thời, công tác nghiên cứu, đổi mới giáo trình, tài liệu phục vụ cho huấn luyện, giảng dạy, sẵn sàng chiến đấu của lực lượng vũ trang cũng được đẩy mạnh và đạt kết quả tốt. Những kết quả đó đã góp phần củng cố niềm tin và quyết tâm đánh thắng chiến tranh xâm lược bằng vũ khí công nghệ cao của địch (nếu xảy ra), bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam XHCN trong tình hình mới.
Tuy nhiên, có giai đoạn việc nghiên cứu, phát triển, vận dụng nghệ thuật chiến dịch, chiến thuật chưa phù hợp với đặc điểm địa hình, điều kiện vũ khí, trang bị và NTQS Việt Nam; công tác nghiên cứu lý luận, NTQS chưa tạo ra bước đột phá; chưa gắn kết chặt chẽ với yêu cầu của thực tiễn, chậm tiếp cận với những luận thuyết chiến tranh mới. Một số học viện, nhà trường chưa quan tâm đúng mức đến công tác nghiên cứu khoa học quân sự; việc xây dựng đội ngũ cán bộ nghiên cứu khoa học quân sự cũng còn những hạn chế, bất cập.
Để phát huy kết quả đã đạt được, khắc phục những khó khăn, hạn chế trong nghiên cứu, phát triển NTQS, một vấn đề có tính nguyên tắc là phải quán triệt sâu sắc quan điểm, đường lối quốc phòng, quân sự của Đảng, đặc biệt là Nghị quyết Trung ương 8 khóa IX về “Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới”, Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng và Nghị quyết đại hội đại biểu Đảng bộ Quân đội lần thứ VIII và các nghị quyết của Đảng ủy Quân sự Trung ương. Trong đó, tập trung vào đường lối xây dựng nền quốc phòng toàn dân, tiến hành chiến tranh nhân dân; nắm chắc, đánh giá đúng tình hình, đối tượng tác chiến, những phát triển mới về phương thức, thủ đoạn tác chiến; về dự báo các tình huống chiến lược và tổ chức huấn luyện, sẵn sàng chiến đấu đánh thắng cuộc chiến tranh xâm lược địch sử dụng vũ khí, trang bị công nghệ cao.
Theo đó, công tác nghiên cứu khoa học NTQS cần tập trung phát triển lý luận về xây dựng nền quốc phòng toàn dân trong điều kiện mới.  Chú trọng làm rõ nội dung, phương pháp, nhiệm vụ xây dựng nền quốc phòng toàn dân. Trên cơ sở thế trận phòng thủ bảo vệ Tổ quốc, tiếp tục nghiên cứu lý luận về xây dựng khu vực phòng thủ tỉnh (thành phố) vững mạnh; tổ chức chiến trường theo yêu cầu mới, trên từng hướng, từng khu vực, gắn với đầu tư xây dựng các công trình phòng thủ quốc gia, phòng thủ dân sự. Nghệ thuật tổ chức, bố trí các lực lượng tác chiến, nòng cốt là các đơn vị chủ lực, bảo đảm sự liên kết chặt chẽ bảo vệ vùng trời, vùng biển, biên giới, từng khu vực phòng thủ cũng như trên toàn lãnh thổ.
Đẩy mạnh nghiên cứu phát triển lý luận về nghệ thuật tạo sức mạnh tổng hợp. Đó là sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc, của cả hệ thống chính trị, dưới sự lãnh đạo của Đảng; là sự kết hợp của sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, giữa quốc phòng với an ninh, kinh tế, đối ngoại và các lĩnh vực khác. Sức mạnh đó được xây dựng từ thời bình và chuyển hoá thành sức mạnh tổng hợp của chiến tranh nhân dân bảo vệ Tổ quốc khi chiến tranh xảy ra. Trong đó, đặc biệt coi trọng nghiên cứu, phát triển nghệ thuật kết hợp các mặt trong đấu tranh quốc phòng, phù hợp với điều kiện, tình hình cụ thể của giai đoạn mới, bao gồm kết hợp các mặt đấu tranh chính trị, đấu tranh ngoại giao, đấu tranh kinh tế, đấu tranh văn hoá, tư tưởng... nhằm thực hiện mục tiêu chung là ngăn ngừa các nguy cơ chiến tranh, đồng thời chuẩn bị sẵn sàng đánh thắng chiến tranh xâm lược. Bên cạnh đó, cần tiếp tục tập trung nghiên cứu bổ sung hoàn thiện cơ chế thực hiện sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước đối với nhiệm vụ quốc phòng, quân sự, an ninh trong thời kỳ mới.
Qua các cuộc chiến tranh diễn ra trên thế giới trong những năm gần đây cho thấy: phương thức tác chiến chủ yếu hiện nay là dùng hoả lực (chủ yếu hoả lực đường không) tiến công các mục tiêu quân sự, kinh tế, chính trị... trên toàn bộ lãnh thổ, sau đó tổ chức lực lượng tiến công bằng đường bộ, đường biển, đổ bộ đường không từ nhiều hướng. Vì vậy, việc nghiên cứu phương thức tiến hành chiến tranh bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới cần tập trung vào nội dung cơ bản của chiến tranh nhân dân bảo vệ Tổ quốc. Đó là cuộc chiến tranh toàn dân, toàn diện, đánh địch trên các môi trường tác chiến; tập trung đánh bại địch trên hướng (khu vực) trọng điểm, nhất là ở chiến trường trên đất liền. Phát huy vai trò, vị trí của khu vực phòng thủ địa phương, kết hợp chiến tranh nhân dân địa phương với tác chiến của các binh đoàn chủ lực; giữa lực lượng cơ động với lực lượng tại chỗ; tác chiến phòng thủ, phòng ngự với phản công, tiến công. Tích cực tạo thời cơ và tận dụng thời cơ, giành thắng lợi, hạn chế thấp nhất tổn thất, đồng thời chuẩn bị sẵn sàng để đánh thắng địch trong trường hợp chiến tranh kéo dài.
Về chiến lược quân sự, tập trung nghiên cứu qui luật chiến tranh, xác định các nguyên tắc, biện pháp tổ chức, sử dụng lực lượng, điều hành tác chiến chiến lược, nhằm đánh bại các biện pháp tác chiến chiến lược của địch, nhanh chóng giành thắng lợi trong chiến tranh. Nghiên cứu, dự báo sự phát triển của phương thức tác chiến chiến lược, dự báo các tình huống gây nguy hại đến đất nước. Từ đó, dự kiến các tình huống và xây dựng phương án phù hợp, bảo đảm chủ động phòng ngừa là chính nhưng khi xảy ra tình huống cụ thể phải xử lý kiên quyết, kịp thời. Trên cơ sở dự kiến các tình huống, tập trung nghiên cứu điều chỉnh bố trí lực lượng chủ lực cơ động trên các địa bàn chiến lược và nghệ thuật tạo lập thế trận trong chiến tranh bảo vệ Tổ quốc, bảo đảm phát huy khả năng tác chiến phòng thủ quân khu...
Về nghệ thuật chiến dịch, chú trọng nghiên cứu, phát triển lý luận chiến dịch trong các loại hình tác chiến chiến lược; nghệ thuật tổ chức, điều hành chiến dịch trong chiến tranh bảo vệ Tổ quốc; các loại hình nghệ thuật chiến dịch tiến công, phản công, phòng ngự...; về tạo lập thế trận chiến dịch, nghệ thuật xác định và đánh trận then chốt quyết định; về phối hợp tác chiến giữa các binh đoàn chủ lực cơ động với lực lượng vũ trang địa phương; hiệp đồng tác chiến quân, binh chủng...
Đối với chiến thuật, cần phát huy NTQS, kinh nghiệm chiến đấu và cách đánh truyền thống trong điều kiện mới, phù hợp với vũ khí, trang bị và địa hình Việt Nam. Nghiên cứu các hình thức chiến thuật; nghệ thuật vận dụng các biện pháp, thủ đọan chiến đấu như đột phá, thọc sâu, vu hồi, chia cắt, nghi binh..., phương pháp phòng tránh, đánh trả khi địch sử dụng vũ khí, trang bị công nghệ cao...
Cùng với các nội dung đó, cần tiếp tục nghiên cứu tổng kết lịch sử NTQS truyền thống Việt Nam. Nét nổi bật nhất trong truyền thống lịch sử của dân tộc Việt Nam là lịch sử chống giặc ngoại xâm. Phần lớn các cuộc chiến tranh đó, kẻ thù xâm lược là những nước lớn, nhân dân ta tiến hành chiến tranh bảo vệ Tổ quốc, giải phóng dân tộc trong điều kiện lấy nhỏ đánh lớn, lấy vũ khí, trang bị kém hiện đại nhưng được dựa trên nền tảng khối đại đoàn kết toàn dân tộc, tạo nên sức mạnh tổng hợp đánh thắng địch có vũ khí, trang bị hiện đại hơn. Từ các cuộc chiến tranh chống xâm lược đó đã xây dựng nên nền NTQS truyền thống Việt Nam đặc sắc. Do đó, thực hiện tốt công tác nghiên cứu tổng kết NTQS trong các cuộc kháng chiến chống ngoại xâm, đặc biệt là hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ không chỉ có ý nghĩa lịch sử mà còn có ý nghĩa thực tiễn và lý luận to lớn đối với sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc ngày nay. Để công tác tổng kết NTQS đạt hiệu quả cao cần quán triệt sâu sắc quan điểm khách quan, toàn diện và lịch sử, có phương pháp xem xét đánh giá khoa học. Quá trình tổng kết cần chú trọng nghiên cứu nghệ thuật tạo sức mạnh toàn dân đánh giặc, lấy lực lượng vũ trang nhân dân làm nòng cốt; phát triển lý luận ở cả 3 bộ phận là chiến lược quân sự, nghệ thuật chiến dịch và chiến thuật. Đó là nghệ thuật đánh địch theo cách đánh của ta, do ta chủ động lựa chọn; đánh địch bằng lực, thế, thời, mưu và sự kết hợp chặt chẽ giữa các yếu tố đó trên một không gian, thời gian, từ chiến thuật, chiến dịch đến chiến lược. Đó là nghệ thuật của sự kết hợp đánh nhỏ, đánh vừa, đánh lớn; kết hợp đánh phân tán với đánh tập trung, đánh du kích với đánh chính qui, đánh địch bằng 3 thứ quân; đánh lớn ở thời điểm, thời cơ quyết định... Việc nghiên cứu, tổng kết phải rút ra những vấn đề thiết thực về NTQS, góp phần vào sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc ngày nay.
Để đạt được mục tiêu, yêu cầu đã xác định, điều quan trọng, cấp thiết hiện nay là đẩy mạnh xây dựng đội ngũ cán bộ nghiên cứu khoa học NTQS ngang tầm đòi hỏi. Thực tế cho thấy, đội ngũ cán bộ nghiên cứu NTQS có trình độ cao, đã trải qua chiến tranh đang ít dần theo thời gian. Do đó, cần chú trọng quan tâm chăm lo đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ nghiên cứu khoa học quân sự kế cận, đặc biệt là những cán bộ chuyên sâu, đầu ngành có học hàm, học vị cao. Đồng thời, cần đổi mới chế độ, chính sách với sự ưu đãi thích đáng, nhằm thu hút nhân tài, động viên được đội ngũ cán bộ, giảng viên, giáo viên trong các học viện, nhà trường, cán bộ nghiên cứu ở các viện, cơ quan bộ, đơn vị tích cực tham gia nghiên cứu khoa học. Bên cạnh đó, cần chú trọng đầu tư phương tiện vật chất, bảo đảm kinh phí cho nghiên cứu khoa học ngày càng tốt hơn; quyết tâm tổ chức diễn tập thực nghiệm theo yêu cầu của những đề tài NTQS có giá trị lý luận và thực tiễn cao. Có chế độ khen thưởng thích đáng cả vật chất và tinh thần cho những cá nhân, đơn vị có đề tài nghiên cứu đạt hiệu quả thiết thực.
 
Trung tướng, TS. Phạm Xuân Hùng
Ủy viên BCHTƯ Đảng
Phó giám đốc Thường trực Học viện Quốc phòng
 
1- ĐCSVN - Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X. Nxb CTQG, H. 2006, tr.73,74.

 

Ý kiến bạn đọc (0)