Thứ Ba, 26/11/2024, 12:00 (GMT+7)
Ấn phẩm tạp chí in
1. Về quan hệ giữa dân tộc với giai cấp và hình thái kinh tế-xã hội (KT-XH). Dân tộc ở đây được hiểu theo nghĩa quốc gia- dân tộctộc người (ethnie). Như thế, chỉ được coi là dân tộc khi xuất hiện giai cấp và hình thành hình thái KT-XH với giai cấp đại biểu cho nó. Điều đó có nghĩa là, dân tộc nào cũng được kết cấu theo một hình thái KT-XH nhất định, và hình thái KT-XH nào cũng tồn tại trong một dân tộc cụ thể. (nation), chứ không phải theo nghĩa
Đương nhiên, dân tộc (nói riêng) là cộng đồng dân cư sống trên một vùng lãnh thổ địa lý, sản xuất, đấu tranh chinh phục thiên nhiên và đấu tranh xã hội (đấu tranh giai cấp và đấu tranh dân tộc); dân tộc nào cũng có lịch sử, truyền thống và nền văn hóa của mình. Còn hình thái KT-XH (nói riêng) là cơ sở kinh tế, cơ cấu xã hội-giai cấp, trên đó hình thành hệ thống chính trị với giai cấp đại biểu cho nó.
Sự vận động đồng thời trong không gian của các dân tộc khác nhau trong sự thống nhất hữu cơ với sự vận động kế tiếp nhau theo thời gian của các hình thái KT-XH phát triển ngày càng cao, tạo nên bức tranh tổng quát của lịch sử xã hội loài người. Do đó, không đi sâu vào dân tộc thì không thể hiểu đúng và xử lý đúng những vấn đề của hình thái KT-XH. Ngược lại, không đi sâu vào hình thái KT-XH thì không thể hiểu đúng những vấn đề về dân tộc; đặc biệt là nhận thức khoa học về sự tồn tại khách quan một cơ cấu xã hội-giai cấp trong lòng dân tộc với giai cấp đại biểu cho dân tộc trong mỗi thời đại.
Giữa dân tộc và hình thái KT-XH thì dân tộc lâu dài hơn, bền vững hơn. Bởi nhiều hình thái KT-XH ở trình độ phát triển ngày càng cao, do vai trò lịch sử của chúng, đã đến và đi trong lịch sử trường tồn của dân tộc, và chính những hình thái KT-XH ấy đã làm nên sự trường tồn ấy của dân tộc, với dấu ấn riêng, với giai cấp đại biểu của từng hình thái KT-XH. Có thể hiểu rằng, dân tộc là cơ sở cho sự hình thành và phát triển của các hình thái KT-XH, còn hình thái KT-XH là động lực cho sự phát triển của dân tộc. Vì lẽ đó, những dân tộc có điều kiện và hoàn cảnh khác nhau, tất yếu làm nảy sinh những mô hình khác nhau của cùng một hình thái KT-XH với quy luật chung của hình thái KT-XH đó.
Đối với CNXH cũng vậy. Theo tính tất yếu ấy và do yêu cầu của thực tiễn, đã có những sự tìm tòi một số mô hình CNXH khác phù hợp với mỗi dân tộc. Nhưng, khuynh hướng kỳ thị với vấn đề dân tộc, thậm chí đồng nhất quy luật chung của CNXH với mô hình đặc thù Liên Xô (trước đây) và cả ý thức cảnh giác với những sự lựa chọn khác không phải là XHCN, đã gây ra khó khăn đối với những sự tìm tòi ấy. Bài học kinh nghiệm lớn của CNXH hiện thực thế kỷ XX đã đưa tới sự xuất hiện xu thế mới của CNXH những năm cuối thế kỷ XX, đầu thế kỷ XXI, tìm tòi những mô hình khác nhau của CNXH, ở những nước CNXH mô hình cũ, ở những nước đang phát triển và cả ở những nước tư bản phát triển.
2. Mấy vấn đề lý luận nêu trên liên quan đến việc giải quyết trong chính trị và thực tiễn mối quan hệ giữa giai cấp với dân tộc, giữa giai cấp công nhân (GCCN) và đảng cộng sản với dân tộc và CNXH.
Ai cũng biết, GCCN là giai cấp mang bản chất quốc tế. Nhưng, ở các dân tộc khác nhau thì GCCN cũng khác nhau và có những đảng cộng sản khác nhau. Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản nêu: công nhân không có tổ quốc. Nêu như vậy là vì, dưới CNTB, tổ quốc do giai cấp tư sản nắm chính quyền giữ vai trò chủ đạo. Vì thế, C. Mác nói thêm: GCCN trước hết phải giành lấy chính quyền ở nước mình, phải trở thành giai cấp chủ đạo trong dân tộc (dân tộc ở đây không phải hiểu theo nghĩa dân tộc tư sản). Theo C. Mác: một dân tộc đi áp bức dân tộc khác thì dân tộc đó không có tự do; một khi, sự bóc lột giai cấp mất đi thì sự đối lập giữa các dân tộc cũng không còn.
Vậy là, C. Mác nói rõ về dân tộc và giai cấp ở chính quốc trong mối quan hệ dân tộc và giai cấp nói chung. Dân tộc thuộc địa gắn với cách mạng vô sản ở chính quốc là đóng góp của V.I. Lê-nin, phát triển tư tưởng của C. Mác. Nguyễn Ái Quốc đã tìm thấy con đường cứu nước ở V.I. Lê-nin; nhưng, nếu V.I. Lê-nin cho rằng, cách mạng thuộc địa phụ thuộc vào cách mạng chính quốc, thì Nguyễn Ái Quốc lại cho rằng: cách mạng thuộc địa có thể giành thắng lợi trước cách mạng chính quốc; không những thế, còn có tác dụng tích cực giúp đỡ cách mạng chính quốc.
Trong điều kiện của toàn cầu hóa, khi mà sự phụ thuộc lẫn nhau giữa các dân tộc lớn, nhỏ ngày càng tăng, thì tính độc lập của các dân tộc ngày càng phát triển. Tất nhiên, chi phối vẫn là các tập đoàn tư bản độc quyền đa quốc gia và xuyên quốc gia. Vì vậy, lý luận và chính trị tư sản cũng phê phán những cái gọi là “dân tộc chủ nghĩa”.
Đặt vấn đề dân tộc và giai cấp như thế là đứng trên lập trường của chủ nghĩa Mác - Lê-nin; nếu gọi là chủ nghĩa dân tộc thì đó là chủ nghĩa dân tộc XHCN, không phải là chủ nghĩa dân tộc cực đoan - một biểu hiện của hệ tư tưởng tư sản mà trong phong trào cộng sản từng có cái gọi là “CNXH dân tộc”, kỳ thị, biệt lập, thậm chí đối lập với dân tộc. “CNXH dân tộc” khác về bản chất với dân tộc XHCN, thuộc hệ tư tưởng của GCCN.
3. Dân tộc Việt Nam có mấy nghìn năm lịch sử; đã trường tồn với tư cách một dân tộc độc lập, trải qua các thời đại theo quy luật của lịch sử. Nhưng dân tộc ta cũng có đặc thù: đã bỏ qua chế độ chiếm hữu nô lệ; đã trải qua chế độ tư bản trong thân phận một dân tộc thuộc địa; đã vùng lên giành lại độc lập tự do, gắn độc lập dân tộc với CNXH, bỏ qua dân tộc tư sản, mở đầu thời đại Hồ Chí Minh - thời đại dân tộc XHCN ở Việt Nam.
So với dân tộc (hàng nghìn năm), thì GCCN Việt Nam còn rất non trẻ (khoảng trăm năm). Song, với đội tiên phong của mình tám mươi tuổi, GCCN Việt Nam đã trưởng thành nhanh chóng; hơn nữa, đã kế thừa các giai cấp và tầng lớp lãnh đạo tiến bộ tiền bối, lãnh đạo các thế hệ Việt Nam trong thời đại mới đánh thắng chiến tranh xâm lược của nhiều kẻ thù hung bạo. Bác Hồ nói: GCCN Việt Nam bé, nhưng là bé hạt tiêu; nó là con nòi, xuất thân từ giai cấp lao động; đội tiên phong của nó là Đảng Cộng sản đã gánh vác được trọng trách của lịch sử. Điều đó đã được chứng minh bằng những thắng lợi vĩ đại của dân tộc ta từ khi có Đảng; đặc biệt là trong đấu tranh giải phóng dân tộc, bảo vệ Tổ quốc; và ngày nay, trong công cuộc đổi mới, xây dựng đất nước, với những thắng lợi to lớn có ý nghĩa lịch sử.
4. Đảng ta là con đẻ của phong trào công nhân và phong trào yêu nước ở nước ta; điều đó khác với đảng cộng sản ở các nước tư bản (chỉ là con đẻ của phong trào công nhân). Do đó, cần xác định Đảng Cộng sản Việt Nammang bản chất giai cấp của GCCN, là đội tiên phong của GCCN Việt Nam, của nhân dân lao động và của cả dân tộc Việt Nam. Chủ tịch Hồ Chí Minh nói: Chính vì Đảng Lao động Việt Nam là đảng của GCCN và của nhân dân lao động nên nó phải là đảng của dân tộc. Cũng vì vậy, nên khẳng định rõ: bản chất giai cấp của Đảng ta là bản chất GCCN.
Quyết định thắng lợi của cách mạng Việt Nam là Đảng đã xác định đúng mục tiêu của cách mạng là Độc lập dân tộc và CNXH, thể hiện ở việc giải quyết đúng mối quan hệ giữa giai cấp và dân tộc. Cương lĩnh năm 1991 nêu: “Độc lập dân tộc là điều kiện tiên quyết để thực hiện CNXH và CNXH là cơ sở bảo đảm vững chắc cho độc lập dân tộc”. Nhưng, dân tộc cũng là cơ sở để xây dựng CNXH. Do đó, Cương lĩnh nên được bổ sung: Độc lập dân tộc là tiền đề, là điều kiện tiên quyết và là cơ sở để xây dựng CNXH; CNXH định hướng cho độc lập dân tộc, là cơ sở đảm bảo độc lập dân tộc và đảm bảo giải phóng dân tộc triệt để; độc lập dân tộc bao giờ và trong mọi giai đoạn của cách mạng đều phải được đặt lên hàng đầu.
Từ kinh nghiệm lịch sử của CNXH hiện thực thế kỷ XX, trong đó có kinh nghiệm của Đảng ta, Đảng ta đặt vấn đề tìm tòi con đường xây dựng một mô hình CNXH phù hợp với những đặc điểm của dân tộc Việt Nam là hoàn toàn đúng đắn. Để rõ hơn điều này, mục tiêu tổng quát trong Cương lĩnh cần nêu rõ là: xây dựng CNXH mang đặc điểm và bản sắc dân tộc Việt Nam. Đây là vấn đề được tổng kết từ thực tiễn và lịch sử của CNXH thế giới, trong đó có Việt Nam, đồng thời tham khảo những kinh nghiệm hay từ Trung Quốc. Theo đó, những nghiên cứu về địa lý-lãnh thổ, lịch sử, truyền thống Việt Nam, con người Việt Nam, đặc biệt là văn hóa Việt Nam,... cần phải sâu sắc hơn, góp phần làm rõ hơn mô hình CNXH ở nước ta.
Để làm tốt điều đó, chúng ta phải luôn đứng vững trên lập trường, phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh; nhưng không thể không sử dụng những tri thức khoa học khác của nhân loại, cả khoa học xã hội và khoa học tự nhiên.
CNXH mang đặc điểm, bản sắc dân tộc Việt Nam phải là CNXH hiện đại phù hợp với thời đại ngày nay; đó cũng là thời đại của văn minh trí tuệ.
Có nhận diện đúng thời đại ngày nay mới có thể xác định đúng những vấn đề cơ bản của CNXH phù hợp với thời đại để tiến lên cùng thời đại. Cần thiết phải phân tích sâu những đặc điểm trong giai đoạn hiện nay của thời đại ngày nay, như: toàn cầu hóa kinh tế trong sự chi phối của CNTB hiện đại tiếp tục đi vào chiều sâu, gắn liền với “khu vực hóa” và tăng cường tính độc lập của các dân tộc; xu thế chủ đạo đang là hòa bình và phát triển, các nước có chế độ xã hội và trình độ phát triển khác nhau phụ thuộc lẫn nhau, vừa hợp tác vừa đấu tranh và cạnh tranh để cùng phát triển; giải quyết những vấn đề toàn cầu bức xúc trong sự tiềm ẩn và đã bùng phát nhiều sự bất ổn dưới nhiều hình thức và mức độ khác nhau (chủ nghĩa khủng bố, xung đột vũ trang, chiến tranh cục bộ...); CNXH thế giới đang rút kinh nghiệm, khắc phục khó khăn, tìm tòi con đường tiến lên phù hợp với mỗi dân tộc, cải tổ, đổi mới giành thắng lợi từng bước,... Chắc chắn trong những đặc điểm của giai đoạn hiện nay, cần thiết có sự phân biệt giữa tính giai đoạn với bản chất và nội dung của cả thời đại ngày nay.
Cần tiếp tục khẳng định: thời đại ngày nay là thời đại quá độ từ CNTB lên CNXH, mở đầu bằng cuộc cách mạng tháng Mười Nga. Nhận diện thời đại như vậy mới nêu được và nêu đúng bản chất chính trị xã hội giai cấp của thời đại, theo đúng học thuyết C. Mác. Tuy nhiên, như thế chưa phản ánh đầy đủ nội dung thời đại theo những cách tiếp cận khác, cùng cấp độ; trong đó, có cách tiếp cận khoa học theo trình độ phát triển của lực lượng sản xuất (LLSX) đã được các nhà khoa học trước C. Mác giải quyết, C. Mác tiếp nhận và phát triển chứ không phủ định.
Khi đi sâu vào giai đoạn hiện nay của thời đại để giải quyết đúng đắn và sáng tạo những vấn đề của CNXH đổi mới, nên có một tinh thần và thái độ giống như đối với học thuyết C. Mác nói chung: “Thực tiễn đòi hỏi phải có một sự đột phá lớn lao mới trong lý luận mác-xít. Nguyên lý mác-xít chỉ có thể được bảo tồn và làm giàu một cách sáng tạo trong điều kiện bước ngoặt của thời đại ngày nay, trên cơ sở những thành tựu mới của cách mạng khoa học-kỹ thuật hiện đại, trên cơ sở đánh giá đúng những thay đổi lớn của thế giới, trên cơ sở phê phán có kế thừa những lý thuyết ngoài chủ nghĩa Mác, tiếp thu một cách có chọn lọc những yếu tố sáng tạo và hợp lý của các trào lưu tiến bộ khác, không đố kỵ, không xa lánh, không đối lập"1. Nhấn mạnh một chiều về sự quá độ từ CNTB lên CNXH, không tiếp cận ở cấp độ thời đại về sự quá độ từ văn minh công nghiệp lên văn minh trí tuệ đang đảo lộn cuộc sống toàn nhân loại trên khắp hành tinh; không chú ý đầy đủ vai trò quyết định của LLSX, cũng là một bài học phải trả giá của CNXH hiện thực thế kỷ XX. Phải chăng, đây là nguyên nhân lý luận của thực tiễn áp đặt một cách chủ quan những hình thức quan hệ sản xuất không phù hợp, đi trước LLSX, dẫn tới sự trì trệ, lạc hậu của CNXH so với CNTB hiện đại.
Trong văn minh trí tuệ, lao động sản xuất của loài người chuyển dần sang lao động trí óc là chính, tức khoa học và công nghệ trở thành LLSX trực tiếp, bộ phận trí thức trực tiếp tham gia lao động sản xuất trở thành công nhân - công nhân hóa - và công nhân được trí thức hóa, hình thành dần một GCCN trí thức, GCCN hiện đại, đại biểu cho LLSX hiện đại trong CNXH hiện đại. Cũng là GCCN nhưng khác GCCN trong văn minh công nghiệp thời C. Mác.
Quá trình này đã và đang diễn ra trong công cuộc đổi mới ở nước ta, qua chủ trương của Đảng đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, xây dựng nền kinh tế tri thức,... tất yếu dẫn đến quá trình tri thức hóa, trí thức hóa lực lượng lao động và hình thành dần GCCN trí thức ở nước ta. GCCN lãnh đạo không chỉ thể hiện vai trò lãnh đạo thông qua Đảng Cộng sản, mà cả trong thực tiễn, phải trở thành lực lượng tiên phong và nòng cốt trong quá trình xây dựng cơ sở vật chất-kỹ thuật của CNXH hiện đại mang đặc điểm, bản sắc dân tộc Việt Nam.
Để làm tròn sứ mệnh lịch sử của mình, Đảng Cộng sản Việt Nam phải luôn xứng đáng là ngọn cờ đạo đức và trí tuệ của dân tộc Việt Nam, trước hết thể hiện trong xây dựng và thực hiện Cương lĩnh cách mạng của Đảng, phản ánh đúng bản chất, vị trí và vai trò của GCCN Việt Nam hiện đại trong văn minh trí tuệ.
QUANG CẬN
________
1- GS, TS. Vũ Văn Hiền - Chủ nghĩa Mác trong thời đại ngày nay - Tạp chí QPTD, số 2/2010, tr.57.
Trao đổi ý kiến giữa Tạp chí quốc phòng toàn dân với bạn đọc, cộng tác viên Quân khu 5 12/12/2011
Nghệ thuật tổ chức, sử dụng lực lượng quân sự trong những ngày đầu kháng chiến toàn quốc 12/12/2011
“Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến” với việc xây dựng nền quốc phòng toàn dân trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc hiện nay 12/12/2011
Một số vấn đề về nghệ thuật chiến dịch phòng ngự trong chiến tranh bảo vệ Tổ quốc 12/12/2011
Hưng Yên không ngừng nâng cao hiệu quả công tác giáo dục quốc phòng 12/12/2011
Kết quả và kinh nghiệm tiến hành công tác phổ biến, giáo dục pháp luật của lực lượng vũ trang Quân khu 5 12/12/2011
Đoàn B.90 nâng cao chất lượng xây dựng lực lượng dự bị động viên - một số kinh nghiệm bước đầu 12/12/2011
Trường Quân sự Binh đoàn Cửu Long phấn đấu nâng cao chất lượng giáo dục, đào tạo và huấn luyện 11/12/2011
Kết hợp kinh tế với quốc phòng, tạo lập thế trận phòng thủ vững chắc trên địa bàn tỉnh ven biển Thái Bình 11/12/2011
Trung tâm Nhiệt đới Việt - Nga phát huy nội lực, mở rộng hợp tác, nâng cao hiệu quả hoạt động 11/12/2011