QPTD -Chủ Nhật, 07/08/2011, 23:57 (GMT+7)
Cương lĩnh 1991 về mối quan hệ giữa quốc phòng, an ninh và đối ngoại

“Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội” (Cương lĩnh 1991) đã qua gần 20 năm thực hiện; đến nay, nhiều nội dung cần được tổng kết, bổ sung, phát triển cho phù hợp với thực tiễn đất nước trong thời kỳ mới. Quốc phòng, an ninh và đối ngoại là ba lĩnh vực giữ vị trí rất quan trọng trong Cương lĩnh. Chúng có mối quan hệ khăng khít, không tách rời nhau và liên quan đến tất cả các lĩnh vực khác trong xã hội; mà giải quyết tốt các lĩnh vực đó sẽ  tạo điều kiện thuận lợi để giữ vững ổn định chính trị, trật tự, an toàn xã hội, bảo vệ cuộc sống bình yên, hạnh phúc cho nhân dân, tạo vị thế, uy tín của đất nước trên trường quốc tế.

Cương lĩnh 1991 xác định “nhiệm vụ của quốc phòng - an ninh là bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, lãnh thổ toàn vẹn của Tổ quốc, bảo vệ chế độ XHCN, sự ổn định chính trị, trật tự và an toàn xã hội, quyền làm chủ của nhân dân, làm thất bại mọi âm mưu và hành động của các thế lực đế quốc, phản động phá hoại sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta”. Mục tiêu của chính sách đối ngoại được Cương lĩnh chỉ rõ là, “tạo điều kiện quốc tế thuận lợi cho công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc đi lên CNXH, góp phần vào sự nghiệp đấu tranh chung của nhân dân thế giới vì hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội”. Cương lĩnh cũng khẳng định một số chủ trương, giải pháp lớn về mối quan hệ giữa quốc phòng, an ninh, đối ngoại, như: củng cố quốc phòng, giữ vững an ninh quốc gia là nhiệm vụ trọng yếu thường xuyên của toàn dân và của Nhà nước; xây dựng vững chắc thế trận quốc phòng toàn dân kết hợp chặt chẽ với thế trận an ninh nhân dân; sự ổn định và phát triển mọi mặt đời sống xã hội là nền tảng của quốc phòng - an ninh, v.v.

Trong quá trình lãnh đạo thực hiện công cuộc đổi mới, nhận thức cũng như hoạt động thực tiễn giải quyết mối quan hệ giữa quốc phòng, an ninh và đối ngoại của Đảng đã có nhiều đổi mới, ngày càng hoàn thiện.

Nghị quyết Đại hội VIII và Đại hội IX của Đảng đã khẳng định rõ sự cần thiết phải phối hợp chặt chẽ hoạt động quốc phòng và an ninh với hoạt động đối ngoại. Hội nghị Trung ương Tám (khoá IX) đã có sự phát triển, cụ thể hoá tư tưởng phối hợp ba lĩnh vực bằng yêu cầu phải: “Thể chế hoá kịp thời các chủ trương, chính sách về xây dựng nền quốc phòng toàn dân và an ninh nhân dân; từng bước hoàn thiện hệ thống pháp luật về bảo vệ Tổ quốc, trước hết tập trung hoàn chỉnh pháp luật về quốc phòng, an ninh, đối ngoại...”1; đồng thời, còn xác định: “xây dựng quy chế thống nhất quản lý hoạt động đối ngoại và quy chế phối hợp quốc phòng, an ninh, đối ngoại”2. Theo đó, Sách trắng Quốc phòng Việt Nam năm 2004 đã khẳng định: “Việt Nam chủ trương phát triển kinh tế - xã hội, đồng thời tăng cường khả năng quốc phòng, phối hợp các hoạt động quốc phòng, an ninh với hoạt động đối ngoại”3; Điều 5 của Luật Quốc phòng (năm 2005) cũng nói rõ nguyên tắc hoạt động quốc phòng là “kết hợp với hoạt động an ninh và hoạt động đối ngoại”4.

 Như vậy, so với Cương lĩnh 1991, Đảng ta đã có bước phát triển mới trong nhận thức về mối quan hệ giữa quốc phòng, an ninh và đối ngoại; thấy rõ hơn vai trò của an ninh, đối ngoại với quốc phòng và sự cần thiết phải gắn kết chặt chẽ quốc phòng, an ninh và đối ngoại trong một chiến lược thống nhất; đồng thời, sự kết hợp giữa ba lĩnh vực đó đã ngày càng được chú trọng hơn; từng bước được thể chế hoá trong luật pháp Nhà nước thông qua các chiến lược, quy hoạch và kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội; cùng hệ thống chính sách về quốc phòng, an ninh, đối ngoại (Chiến lược bảo vệ Tổ quốc, Chiến lược bảo vệ An ninh quốc gia, Luật Quốc phòng, Luật An ninh quốc gia…). Trong thực tế, sự kết hợp giữa nhiệm vụ quốc phòng, an ninh với nhiệm vụ đối ngoại trong xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân gắn với thế trận an ninh nhân dân đã được chú trọng hơn; sự phối hợp hoạt động giữa quân đội và công an (theo Quyết định 107/2003/QĐ/TTg của Thủ tướng Chính phủ) ngày càng chặt chẽ, hiệu quả hơn. Chủ trương xây dựng khu vực phòng thủ tỉnh (thành phố), các khu kinh tế - quốc phòng, quốc phòng - kinh tế… đã mang lại hiệu quả thiết thực cả về kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh, đối ngoại; đặc biệt, việc giải quyết những vấn đề nhạy cảm trên các vùng trọng điểm ở biên giới, vùng chồng lấn trên biển với một số quốc gia đã mang lại những kết quả tốt. Sự phối hợp, kết hợp giữa hoạt động quốc phòng, an ninh với hoạt động đối ngoại đã làm thất bại âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch lợi dụng vấn đề về “dân tộc”, “tôn giáo”, “dân chủ”, “nhân quyền” chống phá sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta; góp phần bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ, giữ vững môi trường hoà bình, ổn định để xây dựng đất nước. Cùng với sự phát triển quan hệ về kinh tế, văn hoá, ngoại giao, đến nay Việt Nam đã thiết lập quan hệ quốc phòng, quân sự với hơn 60 nước trên thế giới, trong đó có 24 cơ quan tuỳ viên quốc phòng đặt tại các nước.

Tuy nhiên, do quốc phòng, an ninh, đối ngoại là ba lĩnh vực có chức năng, nhiệm vụ, biên chế, tổ chức, phương thức hoạt động không giống nhau, nên trong quá trình hoạt động đã nảy sinh một số vấn đề đòi hỏi chúng ta cần nghiên cứu giải quyết. Ở cấp vĩ mô, quốc phòng, an ninh, đối ngoại đã tạo được sức mạnh tổng hợp bảo đảm lợi ích quốc gia, dân tộc; nhưng ở cấp vi mô, trong một số trường hợp cụ thể, sự phối hợp, kết hợp giữa hoạt động quốc phòng, an ninh với hoạt động đối ngoại còn thiếu chặt chẽ, chưa tạo được sự đồng thuận cao; nhiều khi, lợi ích của địa phương, của ngành, của lĩnh vực còn lấn át lợi ích chung. Nhận thức về mối quan hệ quốc phòng, an ninh, đối ngoại trong đấu tranh bảo vệ Tổ quốc có lúc, có nơi chưa đầy đủ; chưa thấy hết sự phát triển mới của tình hình và yêu cầu cao của mối quan hệ quốc phòng, an ninh, đối ngoại trong thời kỳ mới. Sự phối hợp hoạt động của các lực lượng đối ngoại quân sự, quốc phòng, an ninh với các lực lượng đối ngoại Đảng, ngoại giao Nhà nước, ngoại giao nhân dân trong đấu tranh bảo vệ Tổ quốc trên lĩnh vực đối ngoại có khi chưa đồng bộ và chưa thống nhất. Vì vậy, để thực hiện tốt hơn việc kết hợp giữa quốc phòng, an ninh với đối ngoại trong thời kỳ đất nước đẩy mạnh hội nhập kinh tế quốc tế, cần tiếp tục giải quyết đồng bộ nhiều vấn đề về nhận thức và thiết chế tổ chức; trước hết, tập trung vào một số vấn đề sau:

Một là, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, quản lý, điều hành của Nhà nước đối với quốc phòng, an ninh và đối ngoại. Khẳng định vai trò của quốc phòng, an ninh và đối ngoại, sự cần thiết phải kết hợp hoạt động giữa các lĩnh vực đó đòi hỏi phải tăng cường sự lãnh đạo của cấp uỷ Đảng và quản lý, điều hành của chính quyền từ Trung ương đến địa phương. Việc xác định đường lối, quan điểm, chủ trương cũng như xây dựng chiến lược, kế hoạch, phương thức hoạt động trên các lĩnh vực quốc phòng, an ninh và đối ngoại thuộc trách nhiệm của Đảng và Nhà nước. Nhưng hiện nay, ta chưa có Chiến lược về Quốc phòng toàn dân, Chiến lược An ninh nhân dân…; cũng chưa cụ thể hoá nguyên tắc lãnh đạo của Đảng và cơ chế điều hành, quản lý của Nhà nước trong phạm vi cả nước và từng địa phương, nên còn có tình trạng cán bộ địa phương xem nhẹ, buông lỏng việc thực hiện sự kết hợp ba lĩnh vực này; hoặc khi thực hiện thì chồng chéo, không rõ trách nhiệm, dẫn đến hiệu quả, hiệu lực phối hợp, kết hợp giữa hoạt động quốc phòng, an ninh với hoạt động đối ngoại chưa cao, chưa kịp thời.

Hai là, phải xây dựng đồng bộ hệ thống luật, pháp lệnh, nghị định và cơ chế, phương thức hoạt động phối hợp giữa quốc phòng, an ninh và đối ngoại. Để quản lý, điều hành cũng như thực hiện sự phối hợp, kết hợp giữa hoạt động quốc phòng, an ninh với hoạt động đối ngoại, phải có hệ thống luật, pháp lệnh, cơ chế, chính sách cùng các văn bản hướng dẫn tổ chức thực hiện đồng bộ, tạo cơ sở pháp lý để hiện thực hoá sự phối hợp, kết hợp hoạt động giữa ba lĩnh vực này. Cơ chế phối hợp, kết hợp hoạt động giữa quốc phòng, an ninh với đối ngoại phải quy định rõ phương thức, trách nhiệm, quyền hạn của cả ba lĩnh vực, ở cả cấp Nhà nước và địa phương; trong đó, phải quy định rõ sự phối hợp, kết hợp trong thời bình, khi có các tình huống nảy sinh (gây rối trật tự công cộng, xung đột vũ trang, bạo loạn lật đổ...) và khi đất nước có chiến tranh. Cơ chế đó phải bảo đảm sự quản lý, điều hành thống nhất trong phạm vi cả nước, nhưng phải linh hoạt, kịp thời ở từng vụ việc, từng địa phương, không để bị động, bất ngờ.

Ba là, kết hợp chặt chẽ giữa hoạt động đối ngoại quốc phòng, đối ngoại an ninh với hoạt động đối ngoại nhân dân. Trên cơ sở đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước, căn cứ vào chức năng, nhiệm vụ của từng lĩnh vực để thiết lập quan hệ ngoại giao với các nước cả về quốc phòng, an ninh và đối ngoại, nhằm mục tiêu chung là: tạo điều kiện quốc tế thuận lợi cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, góp phần cùng nhân dân thế giới đấu tranh vì hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội. Đẩy mạnh phối hợp hoạt động đối ngoại quốc phòng, an ninh với hoạt động đối ngoại nhân dân trên các địa bàn (đặc biệt là các vùng biên giới, biển, đảo), với các hình thức phong phú, linh hoạt, như: giao lưu, gặp gỡ hữu nghị nhân các ngày lễ, ngày Tết; hội đàm thông báo tình hình, phối hợp giải quyết các vụ việc; học tập kinh nghiệm… nhằm tăng cường quan hệ hợp tác hữu nghị, hiểu biết lẫn nhau trên nhiều mặt, góp phần phát triển kinh tế, ổn định xã hội, giữ vững an ninh chính trị, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam XHCN.

Trung tướng, PGS, TS. LÊ MINH VỤ

Giám đốc Học viện Chính trị

________________

1, 2 - Ban Tư tưởng - Văn hoá Trung ương - Tài liệu học tập Nghị quyết Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá IX , Nxb CTQG, H. 2003, tr. 55.

3 -  Bộ Quốc phòng - Quốc phòng Việt Nam những năm đầu thế kỷ XXI, H.2004, tr.12.

4 - Luật Quốc phòng, Nxb CTQG, H. 2005, tr. 11.

 

Ý kiến bạn đọc (0)