QPTD -Thứ Sáu, 19/08/2011, 23:29 (GMT+7)
Chiến dịch Tây Nguyên (3/1975) sau 35 năm nhìn lại

Chiến dịch Tây Nguyên thắng lợi là kết quả của sự vận dụng sáng tạo đường lối quân sự của Đảng, tư tưởng quân sự Hồ Chí Minh và nghệ thuật quân sự Việt Nam; trong đó, nổi bật ở việc: nhận định đánh giá đúng tầm quan trọng của địa bàn Tây Nguyên, chỉ đạo chiến lược tài tình, làm chuyển biến thế chiến lược, tạo thời cơ để Bộ Thống soái quyết định giải phóng miền Nam trong năm 1975.

                                     

Chiến dịch Tây Nguyên (từ ngày 4 đến ngày 24-3-1975) là chiến dịch mở đầu cuộc tiến công chiến lược, đã tiêu diệt và đập tan toàn bộ hệ thống phòng ngự của Mỹ, nguỵ ở Tây Nguyên, tạo ra đột biến về chiến lược và điều kiện thuận lợi phát triển cuộc tiến công chiến lược thành cuộc tổng tiến công chiến lược, giải phóng hoàn toàn miền Nam. Chúng ta cần nhìn nhận và đánh giá đúng những căn nguyên sâu xa và trực tiếp về sự kiện lịch sử vô cùng quan trọng này; qua đó, đúc rút ra các bài học quý để góp phần xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân, gắn với thế trận an ninh nhân dân và xây dựng lực lượng vũ trang trong thời kì mới.

Trước hết, thắng lợi của chiến dịch Tây Nguyên là thắng lợi của việc đánh giá đúng tình hình để chọn đúng hướng tiến công chiến lược. Vào giai đoạn cuối của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, trên cơ sở phân tích, đánh giá tình hình một cách khoa học, Đảng ta nhận rõ thời cơ giải phóng miền Nam đã chín muồi. Bộ Chính trị đi đến thống nhất giải phóng miền Nam trong 2 năm: 1975-1976. Quá trình nghiên cứu, phân tích tình hình, Bộ Chính trị, Quân uỷ Trung ương quyết định chọn Tây Nguyên làm hướng tiến công chiến lược, mở màn cho chiến cuộc 1975-1976; bởi đây là địa bàn có vị trí vô cùng quan trọng về chiến lược, nếu ta giải phóng được, sẽ làm rung chuyển toàn bộ chiến trường miền Nam. Nhận thức được vấn đề đó, để bảo đảm Chiến dịch chắc thắng, Bộ Tư lệnh Chiến dịch đã tiến hành công tác chuẩn bị hết sức kỹ lưỡng, chu đáo và quyết định chọn Buôn Ma Thuột để đánh trận mở đầu-trận then chốt quyết định. Đây là một đòn đánh hiểm, đánh vào chỗ mạnh nhưng có sơ hở của địch (do ta cài thế, nghi binh, lừa địch điều chuyển binh lực ở đây). Bởi vì, nếu ta chiếm được Buôn Ma Thuột, sẽ phá vỡ hệ thống phòng thủ của địch, tạo ra thời cơ thuận lợi, nhanh chóng giải phóng Tây Nguyên. Cùng với  đó, ta sẽ chia cắt chiến trường miền Nam thành hai cụm (một là Huế-Đà Nẵng, hai là Sài Gòn); đồng thời, còn phát triển lực lượng tiến công xuống đồng bằng khu 5 và các tỉnh miền Đông Nam Bộ. Để thực hiện quyết tâm chiến lược đó, Bộ Chính trị, Bộ Tổng Tư lệnh đã quyết định tăng cường cho Tây Nguyên một số lượng lớn về lực lượng, vũ khí, trang bị và tổ chức Bộ Tư lệnh tiền phương bên cạnh Bộ Tư lệnh Chiến dịch để chỉ đạo trực tiếp Chiến dịch. Đây là nguyên nhân chủ yếu, trực tiếp, đưa Chiến dịch Tây Nguyên đến toàn thắng. Chiến dịch Tây Nguyên thắng lợi là điều kiện tiên quyết để Bộ Chính trị hạ quyết tâm giải phóng miền Nam ngay trong năm 1975.

Thắng lợi của Chiến dịch Tây Nguyên là kết quả của sự vận dụng sáng tạo đường lối quân sự của Đảng, tư tưởng quân sự Hồ Chí Minh và nghệ thuật quân sự Việt Nam. Điều đó, được thể hiện rõ nét nhất là nghệ thuật bố trí một thế trận rất hiểm: “trói địch” lại trên các hướng, còn ta thì tập trung lực lượng đánh địch ở thế chúng hoàn toàn bị cô lập, lực lượng mỏng, yếu, ít có khả năng chi viện cho nhau. Xét về tương quan so sánh lực lượng, cho dù lực lượng chiến lược của địch còn rất mạnh, cũng không thể chi viện được cho Tây Nguyên, vì ta đã dùng lực lượng mạnh kìm chân địch ở hai đầu chiến tuyến. Trực tiếp tại chiến trường Tây Nguyên, mặc dù lực lượng Quân khu 2, Quân đoàn 2 của địch vẫn còn nguyên vẹn, cũng bị “vô hiệu hoá”, do ta đã dùng các sư đoàn, trung đoàn mạnh thực hiện chia cắt, bao vây, cô lập và đánh chiếm toàn bộ các trục đường địch có thể cơ động để tăng viện cho Buôn Ma Thuột; đồng thời, khống chế các sân bay, không cho máy bay địch cất, hạ cánh. Một điểm nổi bật nữa của Chiến dịch là, ta đã sử dụng nhiều biện pháp có hiệu quả để nghi binh, lừa địch. Có thể nói, đây là một chiến dịch mà ta nghi binh thành công nhất trong tất cả các chiến dịch ở hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, đã làm cho địch mất phương hướng, phạm hết sai lầm này đến sai lầm khác, nhất là trong việc nhận định hướng tiến công của ta. Trong quá trình tổ chức thực hành chiến dịch, ta đã vận dụng sáng tạo tư tưởng quân sự Hồ Chí Minh về “mưu kế và thế trận” để nghi binh, lừa địch và “trói chân địch lại mà đánh”- đây cũng là một nét đặc sắc, bổ sung và làm phong phú thêm nền nghệ thuật quân sự Việt Nam.

Thắng lợi đó là kết quả của sự chỉ đạo chiến lược tài tình của Bộ Thống soái; là thắng lợi của nền khoa học và nghệ thuật quân sự Việt Nam, cộng với tinh thần quả cảm, mưu trí, sáng tạo của các lực lượng vũ trang và toàn dân. Với khí thế, tinh thần quyết tâm chiến thắng của quân và dân trên địa bàn Chiến dịch, chúng ta luôn chủ động trong mọi tình huống, biết tạo thời cơ và nắm bắt thời cơ, phát triển thắng lợi vượt ra ngoài nhiệm vụ được giao. Trong tác chiến chiến dịch, các lực lượng luôn hiệp đồng tác chiến chặt chẽ, tạo thế cho nhau và tạo ra thời cơ mới, rồi nhanh chóng chớp thời cơ, phát triển thắng lợi. Cuối cùng, mục tiêu, không gian chiến dịch cũng đã vượt phạm vi, nhiệm vụ được giao, đó là: giải phóng một phần Tây Nguyên; đồng thời, ta còn chủ động phát triển tiến công giải phóng toàn bộ Tây Nguyên. Hơn nữa, không gian Chiến dịch cũng đã vượt ra ngoài phạm vi Tây Nguyên; lực lượng chiến dịch đã phát triển tiến công xuống các tỉnh ven biển, kết hợp với lực lượng vũ trang địa phương, giải phóng hoàn toàn 3 tỉnh ven biển khu 5, tạo ra bước ngoặt chiến lược cho chiến cuộc mùa Xuân 1975. Bài học sâu sắc nhất trong Chiến dịch là, việc chấp hành nghiêm Chỉ thị của Đại tướng Tổng Tư lệnh trước khi giao nhiệm vụ cho Bộ Tư lệnh Chiến dịch Tây Nguyên, là: “phải theo dõi, nắm chắc tình hình, tình hình có thể xảy ra đột biến, phải hết sức chủ động hành động, không chờ lệnh cấp trên, thời cơ có thể diễn ra rất nhanh, không được do dự, chậm trễ”.

Có thể thấy, Tây Nguyên là địa bàn có địa chính trị, địa chiến lược, địa quân sự cực kỳ quan trọng, nên trong lịch sử dựng nước và giữ nước, ta và địch luôn đặc biệt quan tâm đến địa bàn chiến lược quan trọng này. Về phía địch, thực dân Pháp khi xâm lược nước ta cũng đã từng tuyên bố: nếu ai chiếm, giữ được Tây Nguyên thì sẽ làm chủ 3 nước Đông Dương. Đến khi, đế quốc Mỹ trực tiếp đưa quân vào xâm lược miền Nam, đồng thời với đổ bộ lên Đà Nẵng, chúng cũng nhanh chóng đưa đại quân vào khống chế địa bàn chiến lược này. Đế quốc Mỹ xác định, đây là mái nhà của bán đảo Đông Dương, do vậy để chiếm giữ, chúng đã đưa vào đây những sư đoàn, lữ đoàn tinh nhuệ nhất (Sư đoàn Kỵ binh không vận số 1 - “Anh cả đỏ”, Sư đoàn 4 bộ binh tinh nhuệ, Sư đoàn 25 - “Tia chớp nhiệt đới”...) nhằm khống chế toàn bộ khu vực Trung Đông Dương, giữ thế cho chiến trường Trung Trung bộ và nối liền với chiến trường Trị Thiên ở phía Bắc, chiến trường Nam Trung Bộ ở phía Nam, cùng với chiến trường Trung Hạ Lào và Đông Bắc Cam-pu-chia.

Về phía ta, để phát huy tối đa những lợi thế về địa hình, sở trường đánh địch ở địa hình rừng núi, chúng ta cũng chọn Tây Nguyên làm nơi đối chọi từ đầu đến cuối cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. Ở đây, đã diễn ra những trận đánh, những chiến dịch, cùng với những thắng lợi vang dội đã từng tạo ra thế trận, cục diện có lợi cho ta. Điển hình là: chiến thắng oanh liệt ở Pleime (1965), ta đã diệt gọn tiểu đoàn Mỹ đầu tiên tham chiến tại chiến trường miền Nam. Chiến lược “Việt Nam hoá chiến tranh” cũng được bắt đầu thử nghiệm tại chiến trường này; tại đây trong vòng 1 tháng, lực lượng vũ trang Tây Nguyên đã đánh bại liên tiếp 3 cuộc hành quân (Bình Tây: 48, 49 và 50) của địch và gây cho chúng những tổn thất vô cùng nặng nề, buộc chúng phải tháo chạy khỏi Tây Nguyên. Đó chính là dấu hiệu cáo chung cho sự sụp đổ không thể tránh khỏi của chiến lược “Việt Nam hoá chiến tranh”. Còn trong cuộc tiến công chiến lược mùa Xuân 1975, ta chọn Buôn Ma Thuột đánh trận mở đầu-trận then chốt quyết định, đã tạo ra một thế trận mới thuận lợi hơn, để tiêu diệt và làm tan rã toàn bộ Quân khu 2, Quân đoàn 2 nguỵ, tiến tới giải phóng hoàn toàn Tây Nguyên, thừa thắng giải phóng 3 tỉnh đồng bằng khu 5. Chiến thắng Tây Nguyên đã phá vỡ toàn bộ hệ thống phòng ngự liên hoàn của địch, tạo thế, tạo thời để ta mở tiếp đòn tiến công chiến lược thứ 2, giải phóng Huế-Đà Nẵng và kết thúc đòn tiến công chiến lược quyết định cuối cùng bằng Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử. Có thể nói, nếu chiến dịch Tây Nguyên không thắng lợi thì cũng chưa có đòn tiến công chiến lược vào Huế-Đà Nẵng và càng không có trận quyết chiến chiến lược cuối cùng giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước.

Chiến dịch Tây Nguyên thắng lợi, làm chuyển biến thế chiến lược có lợi cho ta để tiến lên giành thắng lợi hoàn toàn. Thắng lợi đó càng khẳng định địa bàn Tây Nguyên có vị trí chiến lược vô cùng quan trọng cả trong chiến tranh giải phóng trước đây, cũng như trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay. Nhận thức rõ ý nghĩa chiến lược quan trọng đó, Đảng, Nhà nước ta đã luôn coi trọng xây dựng Tây Nguyên phát triển toàn diện, vững chắc; trước hết là xây dựng về chính trị, chăm lo củng cố khối đại đoàn kết các dân tộc Tây Nguyên, không ngừng cải thiện, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân Tây Nguyên, nhất là các dân tộc thiểu số, đập tan mọi mưu đồ chia rẽ dân tộc của các thế lực thù địch. Đảng và Nhà nước cũng đang ra sức xây dựng Tây Nguyên trở thành một trọng điểm phát triển kinh tế; đồng thời, chăm lo xây dựng nền quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân vững mạnh, chủ động đập tan mọi âm mưu, hành động chống phá của các thế lực thù địch tại Tây Nguyên. Cùng với đó, cấp uỷ, chính quyền các cấp cũng đang ra sức tuyên truyền, giáo dục nâng cao cảnh giác cho đồng bào các dân tộc Tây Nguyên trước âm mưu, thủ đoạn “Diễn biến hoà bình”, bạo loạn lật đổ của các thế lực thù địch; đồng thời, có nhiều chủ trương, biện pháp lãnh đạo, chỉ đạo, tập trung làm cho Tây Nguyên ngày càng phát triển: vững về kinh tế-xã hội, mạnh về quốc phòng-an ninh, đúng với tầm vóc, vị trí của Tây Nguyên. Chúng ta phải quyết tâm thực hiện bằng được mục tiêu chiến lược quan trọng đó; vì đây là khát vọng của đồng bào cả nước, trước hết là đồng bào các dân tộc Tây Nguyên và hơn nữa còn là tâm nguyện của Bác Hồ từ ngày đầu cách mạng.

Sau 35 năm nhìn lại, thắng lợi của chiến dịch Tây Nguyên vẫn còn nguyên giá trị cả về lí luận và thực tiễn. Trong đó, bài học sâu sắc nổi bật cho mọi thời kỳ, mọi giai đoạn cách mạng, lúc chiến tranh cũng như trong hoà bình xây dựng, đó là việc đánh giá đúng vị trí, ý nghĩa chiến lược của địa bàn Tây Nguyên; xác định đúng quyết tâm chiến lược và phát triển sáng tạo nghệ thuật quân sự Việt Nam. Do đó, ngày nay chúng ta phải không ngừng chăm lo xây dựng thế trận trên địa bàn chiến lược quan trọng này, cũng như xây dựng lực lượng vũ trang với xây dựng nền khoa học quân sự Việt Nam. Trong quá trình đó, phải luôn quán triệt đường lối quân sự của Đảng, tư tưởng quân sự Hồ Chí Minh, xây dựng tinh thần chủ động, sáng tạo, quyết đoán, bảo đảm cho lực lượng vũ trang và nhân dân các dân tộc Tây Nguyên luôn sẵn sàng chiến đấu cao, hoàn thành thắng lợi hai nhiệm vụ chiến lược: xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN trong tình hình mới.

Trung tướng NGUYỄN QUỐC THƯỚC

 

Ý kiến bạn đọc (0)