QPTD -Chủ Nhật, 21/08/2011, 23:55 (GMT+7)
Cần nhận rõ cuộc đấu tranh giai cấp hiện nay

Nhận thức đúng về cuộc đấu tranh giai cấp trong tình hình hiện nay là cơ sở quan trọng để củng cố lập trường, nâng cao tinh thần cảnh giác cách mạng, làm thất bại mọi âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch, bảo vệ Đảng, bảo vệ Nhà nước và chế độ XHCN.

  

Trước xu thế hoà bình - hợp tác, toàn cầu hóa, khu vực hóa và quá trình hội nhập quốc tế sâu rộng, nhiều người dường như lãng quên vấn đề giai cấp và đấu tranh giai cấp. Ai nói đến đấu tranh giai cấp liền bị quy là "bảo thủ", "giáo điều". Ai nhắc nhở phải cảnh giác với âm mưu "diễn biến hòa bình" thì cho là "thiếu thức thời", "tư duy cũ". Nhất là sau sự sụp đổ chế độ XHCN ở các nước Đông Âu và Liên Xô, một lần nữa, nhiều nhân vật chống cộng và không ít kẻ "ăn theo" càng được thể lu loa đủ điều, hí hửng rằng: CNXH đã chết, lý tưởng cộng sản đã hết thời; rằng chủ nghĩa Mác - Lê-nin đã cáo chung! Họ cố tình đồng nhất việc Liên Xô đổ vỡ với việc chấm dứt CNXH và chủ nghĩa Mác - Lê-nin. Tại sao có chuyện rùm beng như thế? Nếu như vấn đề giai cấp không còn nữa; nếu đấu tranh giai cấp không còn nữa, thì lẽ gì họ phải quá hằn học với CNXH và lý tưởng cộng sản làm vậy? Hóa ra là, vấn đề giai cấp vẫn còn nguyên đó. Nó tồn tại tới khi nào không còn giai cấp đối kháng về lợi ích kinh tế và lập trường chính trị. Vấn đề giai cấp thể hiện ra ở tất cả các khía cạnh: kinh tế, chính trị và xã hội; thể hiện trong các cuộc đấu tranh tư tưởng, trong chính sách và hành động trước các sự kiện diễn ra trên thế giới.

Hiện nay cũng như trước đây, vì lợi ích của bản thân, giai cấp tư sản luôn dùng mọi thủ đoạn để loại bỏ công cụ soi sáng các biến cố của xã hội có giai cấp; đó là: lợi ích giai cấp và đấu tranh giai cấp. Quan hệ giai cấp là yếu tố quan trọng nhất để phân tích một cách khoa học mâu thuẫn và sự vận động, phát triển của xã hội có giai cấp. Thực tế cho thấy, cuộc đấu tranh giai cấp vẫn tiếp tục diễn ra theo đúng quy luật phát triển của xã hội loài người; vẫn là cuộc đấu tranh "ai thắng ai" trên bình diện quốc tế, cũng như trong điều kiện cụ thể của từng nước. Với tầm nhìn chiến lược, toàn diện và lâu dài về cuộc đấu tranh giai cấp, bài học về sự sụp đổ chế độ XHCN ở các nước Đông Âu và Liên Xô trước đây vẫn luôn mới mẻ đối với người cách mạng. Bất kì ở đâu, bất kể thời điểm nào, khi cố tình coi nhẹ hoặc không đếm xỉa đến tính phức tạp của cuộc đấu tranh giai cấp trên mặt trận tư tưởng; trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế, xã hội, tư tưởng và văn hóa, thì chính lúc đó, cách mạng sẽ phải trả giá đắt. Cho dù sự sụp đổ chế độ XHCN ở Đông Âu và Liên Xô đã xảy ra, thì những học thuyết về giai cấp, vai trò của giai cấp lãnh đạo cách mạng vẫn không thay đổi. Gần 20 năm qua, nhân dân các nước Đông Âu và Liên Xô (trước đây) bắt đầu nhận ra rằng, họ đã bị mất đi một thể chế xã hội tốt đẹp gắn liền với lợi ích và hạnh phúc của con người, đó là: chữa bệnh, giáo dục không mất tiền, lương hưu bảo đảm chắc chắn, xã hội bình đẳng, không có bóc lột, không có áp bức giai cấp...

Có thể nói, trong thời đại ngày nay, cuộc đấu tranh giai cấp vẫn diễn ra ở tất cả các chế độ xã hội, biểu hiện ra nhiều mức độ khác nhau. Với chế độ tư bản chủ nghĩa, đấu tranh giai cấp vẫn tiềm ẩn với sự bất công, phân cực giàu nghèo ngày càng sâu sắc; thất nghiệp ngày càng đông; tính mạng, an ninh và trật tự xã hội luôn bị đe dọa; sự phá hủy và suy đồi đạo đức xã hội ngày càng gia tăng vì cơn lốc của lợi nhuận. Nếu đi sâu thêm, ta thấy rằng, nguồn gốc của sự xung đột giai cấp trong xã hội tư bản là do lô-gích phát triển trong điều kiện bất bình đẳng, đa số phải phục tùng lợi ích và quyền lực của thiểu số; đồng thời, đó là sự vận hành trên cơ sở quan hệ bóc lột và bị bóc lột giữa giai cấp tư sản và người lao động. Ở các nước phương Tây hiện nay, đi đôi với việc phát triển khoa học-công nghệ và tăng năng suất lao động, mức độ bóc lột của giai cấp tư sản (thể hiện ở tỷ suất giá trị thặng dư) vẫn tăng đáng kể. Chẳng hạn ở Mỹ, tỷ suất giá trị thặng dư trong các ngành sản xuất công nghiệp mấy thập kỷ qua đã tăng như sau: năm 1950: 241%; năm 1960: 247,6%; năm 1970: 255%; năm 1980: 289%; những năm 1990: khoảng 300%; những năm đầu thế kỷ XXI: khoảng 307%.... Không chỉ ở các nước đang phát triển, mà ngay trong lòng các nước TBCN giàu có nhất, luôn đồng thời tồn tại một thế giới của những người nghèo khó (số người sống dưới mức nghèo khổ hiện nay ở Mỹ khoảng 30 triệu, ở Tây Âu khoảng 40 triệu). Mặc dù giai cấp tư sản đã có sự mềm dẻo nhất định trong việc làm dịu mâu thuẫn giữa tư bản và lao động, nhưng đấy vẫn chỉ là ở từng nơi, từng lúc, còn về cơ bản, mâu thuẫn giữa tư bản và lao động vẫn ngày càng gay gắt; thuế khóa, thất nghiệp, các tệ nạn xã hội luôn đeo đẳng người nghèo. Điều đó, sẽ đẩy những mâu thuẫn xã hội lên đỉnh điểm, dẫn đến bùng nổ xã hội. Cuộc sống ngày càng chứng minh dự báo của các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác - Lê-nin là hoàn toàn đúng đắn: mâu thuẫn giữa tính chất xã hội hoá của lực lượng sản xuất với hình thức chiếm hữu tư nhân TBCN về tư liệu sản xuất sẽ được giải quyết theo hướng công cộng hóa hình thức sở hữu cho phù hợp với tính chất xã hội hoá của lực lượng sản xuất, và điều đó không phải cái gì khác mà chính là CNXH. Từ tự do cạnh tranh, CNTB phát triển tới độc quyền, độc quyền nhà nước; trong phạm vi, rồi ra ngoài phạm vi quốc gia và trở thành CNTB toàn cầu. Cùng với quá trình toàn cầu hóa ngày càng tăng, những biện pháp điều chỉnh các quan hệ kinh tế và sở hữu theo hướng công cộng hóa cũng ngày càng tăng; bảo đảm cho các cổ đông, các tổ chức công đoàn và người lao động ngày càng trực tiếp hoặc gián tiếp tham gia quản lý kinh tế-xã hội. Những biến đổi trên, vô hình dung đã trở thành những tiền đề của chế độ xã hội mới trong lòng CNTB.

Mặc dù các nhà kinh doanh tư sản hiện đại đã biết linh hoạt và đôi khi ứng phó có hiệu quả trước diễn biến của tình hình kinh tế-xã hội, nhưng các lực lượng dân chủ, đội ngũ đông đảo những người làm công ăn lương ở các nước TBCN hiện nay cũng đã khác trước. Họ hiểu biết và có nhiều hình thức đấu tranh linh hoạt hơn, nhưng không kém phần mạnh mẽ, hiệu quả, tạo ra trong lòng xã hội tư bản những cơ cấu mới và những quan hệ mới, không mang tính chất tư sản. Cuộc đấu tranh giai cấp của những người lao động chống bóc lột và bất công ở các nước TBCN hiện nay diễn ra không chỉ trong khuôn khổ cấu trúc thượng tầng mà cả ở cơ sở hạ tầng, làm thay đổi nền móng xã hội, làm biến dạng chế độ tư sản. Để có thể thích nghi với thời đại, CNTB đã cố gắng tự điều chỉnh trên mọi lĩnh vực, nhưng cũng chính vì thế đã tự làm nảy sinh những vấn đề mới, ngoài ý muốn của giai cấp tư sản. Nó sẽ bị hút dần một cách không tự giác vào một trật tự xã hội; mà ở đó, những mầm mống và yếu tố mới phát sinh trong lòng xã hội tư bản sẽ là những điều kiện dẫn tới sự thay thế chế độ tư hữu bằng chế độ công hữu trên cơ sở cuộc đấu tranh giai cấp diễn ra theo một cách thức mới.

Với các nước trong thế giới thứ ba, cuộc đấu tranh giai cấp cũng diễn ra không kém phần quyết liệt. Có lẽ trên thế giới, nhiều người vẫn chưa quên nỗi đau về cái chết của Tổng thống A-gien-đê với chế độ xã hội mà ông định xây dựng ở Chi-lê; về sự thất bại ở Ni-ca-ra-goa, En Xan-va-đo, những đảo lộn ở Mô-dăm-bich, Dim-ba-bu-ê, Ăng-gô-la, Xéc-bi, Áp-ga-ni-xtan,... Người ta cũng không quên những gì đã và đang diễn ra xung quanh việc bao vây, cấm vận đối với nước Cu-ba dũng cảm và kiên cường, cùng các điểm nóng khác ở một số nước thuộc Liên Xô (cũ)... Tất cả những sự việc trên cho thấy: cuộc đấu tranh giai cấp ở mọi nơi chưa hề ngưng nghỉ, kể cả sau chiến tranh lạnh. Cũng vì lẽ đó, mà lịch sử đã diễn ra với nhiều sự kiện chưa từng thấy ở các nước thế giới thứ ba; phong trào cánh tả Mỹ La tinh - nơi các dân tộc ngày càng thức tỉnh, không cam phận phụ thuộc vào Mỹ. Một sự thật mà ai cũng biết là, ở Mỹ, hết đời tổng thống này đến đời tổng thống khác, chính sách đối ngoại đều có một điểm chung: đối phó với cuộc đấu tranh giai cấp ở các nước thế giới thứ ba. Và cũng vì thế, trên thế giới đã xuất hiện những nhân vật nổi tiếng, đại diện cho lương tri của các dân tộc: A-rơ-ben, Hồ Chí Minh, Lu-mum-ba, Phi-đen Ca-xtơ-rô, A-gien-đê... Trên quy mô toàn cầu, các lực lượng chống cộng và chống cách mạng vẫn tiếp tục các đòn tiến công, không chỉ bằng các vũ khí hủy diệt con người, mà bằng mọi vũ khí có thể sử dụng, như: kinh tế, tư tưởng, văn hóa, truyền thông... Điều đó càng chứng tỏ, CNTB lo sợ sức mạnh ngày càng tăng của các dân tộc kiên quyết đấu tranh xoá bỏ xiềng xích nô lệ, thực hiện bằng được chân lý "Không có gì quý hơn độc lập, tự do". Sức mạnh của CNTB ở cuối thập kỷ đầu tiên của thế kỷ XXI đang bị lung lay, không còn như trong thế kỷ XX.

 Các thế lực đế quốc hiếu chiến và các lực lượng thù địch bao giờ cũng coi sự tồn tại của CNXH là sự uy hiếp đối với chúng. Vì thế, chúng không chấp nhận sự hiện diện của CNXH và phong trào đấu tranh vì sự tiến bộ, công bằng xã hội trên thế giới. Âm mưu phá bỏ Liên Xô, làm tan rã CNXH hiện thực ở Đông Âu, lật đổ lãnh đạo của các đảng cộng sản, phủ định hình thái ý thức XHCN là mục tiêu nhất quán trong kế hoạch, cũng như trong hành động của chủ nghĩa đế quốc. Thực hiện hàng loạt chiến lược qua nhiều thập kỷ "chiến tranh lạnh", mà đặc biệt là cuộc chạy đua vũ trang vô cùng tốn kém làm suy yếu và kiệt sức Liên Xô, chủ nghĩa đế quốc tới nay vẫn chưa từ bỏ âm mưu làm suy yếu các nước XHCN còn lại. Ở mỗi giai đoạn khác nhau, tùy theo sự phát triển tình hình của mỗi nước, chúng đều tiến hành điều chỉnh chiến lược chống phá cách mạng và các lực lượng tiến bộ trên thế giới cho thích hợp.

"Diễn biến hòa bình", tiếp đến là “cách mạng nhung”, “cách mạng màu”... là những chiến lược tổng thể của chủ nghĩa đế quốc, nhằm thực hiện mục tiêu nói trên. Thế giới gọi đó là "cuộc chiến tranh không có khói súng". Đây thực chất là kế sách phá vỡ thành lũy của CNXH từ bên trong, là chiến thuật "mối xông nhà", nhằm phá ruỗng cơ cấu kinh tế - chính trị - xã hội của các nước XHCN. Các chính trị gia đề xuất chiến lược "Diễn biến hòa bình" đã tổng kết: muốn xoá bỏ chế độ XHCN, không thể dùng vũ lực tấn công từ bên ngoài. Thực tiễn đã diễn ra đúng như vậy. Chủ nghĩa đế quốc từng bị thất bại liên tiếp trong những cuộc xâm lược vũ trang chống các nước XHCN, như: đối với Liên Xô sau Cách mạng Tháng Mười; đối với Cộng hoà Dân chủ nhân dân Triều Tiên đầu những năm 50; đối với Cu-ba đầu những năm 60; và nổi bật nhất, đối với Việt Nam từ cuối những năm 40 đến giữa thập kỷ 70 của thế kỷ XX... Do vậy, họ chuyển hướng sang chống phá các nước XHCN bằng cách làm tan rã các đảng cộng sản cầm quyền-hạt nhân lãnh đạo ở các nước đó. Để thực hiện điều đó, họ đã tìm mọi thủ đoạn phá hoại các đảng đó về mặt tư tưởng và tổ chức. Nhằm phá hoại đảng cộng sản cầm quyền về tư tưởng, họ lấy tư tưởng xã hội-dân chủ thay cho chủ nghĩa Mác - Lê-nin. Những chuyên gia chống cộng của Mỹ đánh giá rằng: chủ nghĩa xã hội-dân chủ và nhà nước phúc lợi là biện pháp hữu hiệu để đấu tranh với sự hấp dẫn của chủ nghĩa cộng sản. Từ đó, họ đưa ra những cách lựa chọn dân chủ khác nhau cho mô hình cộng sản chủ nghĩa. Đây là cơ sở phương pháp luận cho việc đa nguyên hóa về tư tưởng, tiến tới thay thế lập trường tư tưởng của chủ nghĩa Mác bằng ý thức hệ tư sản. Từ việc phá hoại về tư tưởng, bài bản "diễn biến" tiếp theo là phá hoại đảng cộng sản về mặt tổ chức: cổ vũ đa nguyên chính trị và đa đảng đối lập trong chế độ XHCN; đòi huỷ bỏ nguyên tắc tập trung dân chủ, hạ thấp yếu tố "tập trung", nhấn mạnh vai trò của nhân tố "dân chủ", hô hào dân chủ tư sản... Một khi đã chấp nhận đa nguyên chính trị và đa đảng đối lập, thì làm sao tránh khỏi tình trạng trong đảng thì có các "phái", bên ngoài thì có các đảng khác? Để thực hiện "diễn biến hòa bình" ở các nước không theo con đường TBCN, các thế lực chống cộng còn dùng thủ đoạn từng bước mua chuộc, lôi kéo các phần tử dao động, bất mãn, gây dựng các tổ chức chống cộng ngay trong nội bộ đảng cộng sản và các tổ chức xã hội ở các nước đó.

Thực tế cho thấy, phương Tây không chỉ nuôi dưỡng, mà còn ủng hộ, thúc đẩy phe đối lập chính trị đoạt quyền lãnh đạo của đảng cộng sản. Để làm được điều đó, các thế lực chống cộng thường dùng các hình thức sau:

1. Vạch kế hoạch gây rối trong xã hội để dễ bề giành quyền lực. Hoặc, lợi dụng khó khăn về kinh tế, phối hợp bên trong với bên ngoài để thực hiện âm mưu chính trị.

2. Thông qua bầu cử hợp pháp (sau khi bằng nhiều thủ đoạn tinh vi gây sức ép về kinh tế và chính trị), buộc đảng cộng sản cầm quyền phải thực hiện đa nguyên chính trị và đa đảng đối lập trong xã hội.

3. Phát động đảo chính quân sự khi đảng cộng sản cầm quyền suy yếu, mất tín nhiệm và sự ủng hộ trong quần chúng do đường lối, chính sách sai lầm.

Tất cả những thủ đoạn mà các thế lực đế quốc đã và đang sử dụng đối với các nước XHCN cũng như đối với giai cấp những người lao động trên toàn thế giới cho thấy, cuộc đấu tranh giai cấp hiện nay so với trước đây không kém phần gay go, quyết liệt, phức tạp. Đối với các nước XHCN, nó thể hiện cả trong việc bảo vệ lý tưởng cộng sản, chủ nghĩa Mác - Lê-nin và trong việc giữ vững định hướng XHCN. Trong điều kiện mở cửa và hội nhập với thế giới, sử dụng công cụ kinh tế của CNTB để xây dựng CNXH, đảng cộng sản cầm quyền càng phải đề cao cảnh giác, mài sắc ý chí cách mạng, kiên định lập trường giai cấp, nhận dạng thật rõ các hành động và âm mưu thù địch để có biện pháp đấu tranh có hiệu quả.

GS,TS. VŨ VĂN HIỀN

Ủy viên BCHTƯ Đảng,

Tổng Giám đốc Đài Tiếng nói Việt Nam

 

Ý kiến bạn đọc (0)