QPTD -Thứ Hai, 05/09/2011, 23:23 (GMT+7)
Các Mác và thời đại của chúng ta

Năm nay, cùng với nhân loại tiến bộ, Đảng Cộng sản Việt Nam và nhân dân Việt Nam long trọng kỷ niệm lần thứ 190 ngày sinh của Các Mác (5-5-1818– 5-5-2008) -  nhà tư tưởng vĩ đại, vị lãnh tụ thiên tài của giai cấp công nhân và nhân dân lao động toàn thế giới. Tên tuổi của C.Mác gắn liền với  một học thuyết cách mạng đã làm thay đổi đời sống hiện thực của loài người, bắt đầu từ thế kỷ XX đến nay. Những phát hiện khoa học của C.Mác thực sự mang tính vạch thời đại, đã trở thành vũ khí sắc bén cho giai cấp vô sản (GCVS) trong cuộc đấu tranh chống áp bức, bóc lột của giai cấp tư sản (GCTS) và chủ nghĩa tư bản (CNTB); trở thành cương lĩnh, nguyên tắc hành động của các Đảng Cộng sản và công nhân trên toàn thế giới. Có thể khái quát về những phát kiến và cống hiến của Mác đối với nhân loại như sau:

Thứ nhất, C.Mác xây dựng quan niệm  duy vật về lịch sử. Đây là một trong hai phát minh vạch thời đại của C.Mác, như Ph.Ăng-ghen đã tổng kết. Để đi tới phát minh vĩ đại đó, C.Mác đã tiến hành phê phán và cải tạo triệt để phép biện chứng duy tâm của Hê-ghen và chủ nghĩa duy vật siêu hình của Foi-ơ-bắc - những đại biểu kiệt xuất của Triết học cổ điển Đức thế kỷ XIX. Mặt khác, C.Mác cũng đã kế thừa và tiếp thu có chọn lọc những thành tựu triết học, những tinh hoa tư tưởng của nhân loại trước đó. Trước C.Mác, trong triết học có tình hình là, chủ nghĩa duy vật và phép biện chứng tách rời nhau, duy vật thì không biện chứng, mà biện chứng thì không duy vật. Nhờ giải quyết đúng đắn vấn đề cơ bản của triết học, C.Mác đã xây dựng nên một chủ nghĩa duy vật biện chứng thống nhất với phép biện chứng duy vật, đưa ra tuyên ngôn của một nền triết học hành động, khẳng định rằng, triết học phải lấy sinh khí của mình từ thực tiễn, không chỉ giải thích thế giới mà còn cải tạo thế giới đó bằng cách mạng. C.Mác đã làm sáng tỏ phép biện chứng của khách quan và chủ quan, xây dựng nên một định nghĩa kinh điển về bản chất của con người, đó là tổng hoà các mối quan hệ xã hội. Ông khẳng định rằng, lịch sử chính là lịch sử hoạt động của những con người hiện thực, nó không phải là thần bí, tự phát mà hoàn toàn có thể nhận thức được. Lịch sử vận động một cách có quy luật, dựa trên những tiền đề hiện thực, đó là một quá trình lịch sử - tự nhiên. Bằng cách đó, C.Mác đã làm một cuộc cách mạng triệt để trong triết học. Triết học duy vật biện chứng của C.Mác đã đập tan mọi thứ triết học duy tâm coi thế giới là do thần linh sáng tạo ra, vĩnh viễn không thay đổi, con người sống hoàn toàn phụ thuộc vào số mệnh, may rủi, và lịch sử xã hội là do ý muốn của Thượng đế, hay của vua chúa, anh hùng tạo nên. Vận dụng triết học duy vật biện chứng vào việc xem xét xã hội, C.Mác đã sáng lập ra chủ nghĩa duy vật lịch sử, vạch ra quy luật phát triển của xã hội loài người. Lịch sử loài người trước hết là lịch sử phát triển của nền sản xuất xã hội. Quần chúng nhân dân là chủ thể sáng tạo lịch sử và động lực phát triển của lịch sử; là đội quân chủ lực của các cuộc cách mạng xã hội thay thế chế độ xã hội cũ, lỗi thời bằng chế độ xã hội mới tiến bộ hơn. Đảng Cộng sản, chính đảng của giai cấp công nhân (GCCN), có lý luận tiên phong soi đường, là lực lượng lãnh đạo quần chúng nhân dân làm cách mạng để phá bỏ chế độ áp bức, bóc lột TBCN, xây dựng chế độ mới - chế độ cộng sản chủ nghĩa (CSCN). Nhờ có thế giới quan khoa học và cách mạng, C.Mác đã cùng với Ph.Ăng-ghen phát hiện ra vai trò, sứ mệnh lịch sử của GCCN, đó là một giai cấp cách mạng, đại biểu cho phương thức sản xuất tiên tiến, đảm nhận trọng trách lịch sử: giải phóng cho mình và cho cả xã hội loài người.

Thứ hai, phát hiện ra quy luật giá trị thặng dư trong nền sản xuất TBCN. Học thuyết kinh tế là nội dung căn bản của chủ nghĩa Mác. Kế thừa có chọn lọc và với tinh thần phê phán tri thức của các học thuyết kinh tế trước đó, nhất là kinh tế chính trị cổ điển Anh, C.Mác đã làm nên cuộc cách mạng trong lĩnh vực kinh tế chính trị học. Ông đã hoàn thiện học thuyết giá trị -  lao động và đem lại cho các phạm trù tiền tệ, giá cả, lợi nhuận, lợi tức, địa tô,... một sắc thái mới, chẳng những trong xã hội tư bản, mà trong bất cứ một xã hội nào có sản xuất và trao đổi hàng hoá. Mặc dù ngày nay, CNTB với những hình thức biểu hiện mới, khác với hồi cuối thế kỷ XIX, song nhiều luận điểm cơ bản của học thuyết giá trị thặng dư vẫn còn giá trị bền vững, giúp chúng ta thấu hiểu bản chất không thay đổi của CNTB, xuyên qua tất cả các hiện tượng của các thời kỳ khác nhau của CNTB. Thông qua bộ "Tư bản", C.Mác còn để lại cho chúng ta một kho tàng lý luận quý báu về kinh tế hàng hoá, về thị trường. Không phải ai khác, mà chính C.Mác đã chỉ ra rằng, quan hệ hàng hoá - tiền tệ tồn tại trong nhiều hình thái kinh tế-xã hội (KT-XH) khác nhau và luôn chịu sự chi phối của phương thức sản xuất thống trị. Việc phát hiện ra quy luật giá trị thặng dư trong nền sản xuất TBCN vào nửa sau thế kỷ XIX của C.Mác có giá trị khoa học hết sức sâu sắc - xét về mặt lý luận và ý nghĩa cách mạng to lớn - xét về mặt thực tiễn xã hội. Nó góp phần giác ngộ cho vô sản và lao động trong cuộc đấu tranh chính trị để xoá bỏ trật tự hiện tồn TBCN phi nhân tính, như C.Mác nói. Với phát hiện này, C.Mác đã “vén lên bức màn bí mật” của các quan hệ KT-XH dưới CNTB, vạch trần một sự thực là, GCTS đã bóc lột lao động làm thuê của công nhân một cách tàn bạo như thế nào. C.Mác đã từng nhấn mạnh, sự bóc lột cũng là "công nhiên, vô sỉ", sự tích tụ giàu có ở cực này (các nhà tư bản) đồng thời là sự nghèo nàn, cực khổ, bần cùng hoá ở cực kia (vô sản và lao động). Đó còn là sự bóc lột về kinh tế đi liền với áp bức về chính trị và nô dịch về tinh thần, đẩy những người vô sản và quần chúng lao động nghèo khổ vào tình trạng tha hoá, từ tha hoá lao động đến tha hoá bản chất con người. C.Mác cũng đề cập tới con đường giải phóng sự tha hoá chỉ có thể là xoá bỏ chế độ tư hữu TBCN, nguyên nhân sâu xa của mọi áp bức và bóc lột. Bộ “Tư bản” là một tác phẩm vĩ đại mà C.Mác đã nghiền ngẫm và thể hiện suốt 40 năm. Sau khi C.Mác qua đời, Ph.Ăng ghen - người bạn chiến đấu suốt đời của C.Mác - đã viết tiếp cho C.Mác, trên cơ sở kho bản thảo đồ sộ mà C.Mác để lại.

Học thuyết kinh tế của C.Mác chứng minh về mặt lý luận rằng, GCVS nhất thiết phải đấu tranh chống GCTS và nhất định GCVS sẽ chiến thắng, CNXH nhất định sẽ thay thế CNTB. C.Mác đã viết: "Con số những tên trùm tư bản chiếm đoạt và lũng đoạn tất cả những thuận lợi của thời kỳ tiến triển xã hội đó càng giảm bớt đi, thì sự nghèo đói, áp bức, nô dịch, thoái hoá, bóc lột càng tăng thêm, nhưng đồng thời sức phản kháng của GCCN - giai cấp đang không ngừng đông đúc thêm và ngày càng được chính ngay cơ cấu của nền sản xuất TBCN rèn luyện, thống nhất và tổ chức lại - cũng tăng lên… chế độ sở hữu TBCN đã đến giờ tận số. Đến lượt những kẻ đi tước đoạt lại bị tước đoạt" (Tư bản, quyển thứ nhất, tập III).

Thứ ba, C.Mác đã cùng với Ph.Ăng-ghen xây dựng lý luận CNXH khoa học, đặt nền móng cho lý luận khoa học và cách mạng này, chuyển CNXH từ không tưởng thành khoa học. Nhiều vấn đề quan trọng như: sứ mệnh lịch sử của GCCN, đấu tranh giai cấp của GCVS, chiến lược và sách lược cách mạng, cách mạng XHCN và chuyên chính vô sản, đường lối và biện pháp xây dựng chế độ CSCN... đã được C.Mác kiến giải một cách sâu sắc cùng với những dự báo khoa học về xã hội tương lai.

Nhờ có thế giới quan khoa học và cách mạng, chủ nghĩa Mác đã tìm ra quy luật phát triển của xã  hội và lực lượng xã hội có thể xoá bỏ xã hội tư bản và sáng tạo ra xã hội mới, đó là GCVS. C.Mác viết: "Điều mới mẻ mà tôi đã làm là đã chứng minh rằng: Một là, sự tồn tại của giai cấp chỉ gắn liền với những giai đoạn lịch sử nhất định của sự phát triển của sản xuất; hai là, đấu tranh giai cấp tất nhiên đưa đến chuyên chính vô sản; ba là, bản thân sự chuyên chính này chỉ là bước quá độ tiến lên xoá bỏ mọi giai cấp và tiến lên một xã hội không có giai cấp". Đồng thời, C.Mác và Ph.Ăng-ghen chứng minh tính tất yếu của thời kỳ quá độ từ CNTB sang CNCS và chỉ ra hai giai đoạn phát triển của xã hội CSCN: giai đoạn thấp (xã hội XHCN) là giai đoạn vừa thoát thai từ xã hội TBCN, nên còn mang nhiều tàn tích của xã hội cũ; tiếp đó là giai đoạn cao (xã hội CSCN).

C.Mác không những là một nhà khoa học thiên tài, tác giả của nhiều tác phẩm có giá trị to lớn trong kho tàng tri thức của loài người, mà còn là một chiến sỹ cách mạng kiên cường, dũng cảm, thuỷ chung với bạn bè, đồng chí, vượt qua mọi trở lực, khó khăn của đời sống. ở  C.Mác, nhà khoa học và người chiến sỹ cách mạng là một; nghiên cứu khoa học luôn luôn gắn liền với đấu tranh cách mạng. Đọc Điếu văn trước mộ C.Mác, Ph.Ăng-ghen đã  khẳng định: "Bởi vì trước hết C.Mác là một nhà cách mạng. Bằng cách này hay cách khác, tham gia vào việc lật đổ xã hội tư bản và các thiết chế nhà nước do nó dựng nên, tham gia vào sự nghiệp giải phóng giai cấp hiện đại mà ông là người đầu tiên đã đem lại cho giai cấp đó một ý thức về địa vị của bản thân mình và yêu cầu của mình, ý thức về điều kiện giải phóng mình, đó thật sự là sứ mệnh thiết thân của ông. Đấu tranh là hành động tự nhiên của C.Mác. Và C.Mác đã đấu tranh một cách say sưa, kiên cường và có kết quả, không mấy người được như vậy".

Học thuyết của C.Mác đã được V.I.Lê-nin vĩ đại kế thừa, bổ sung và phát triển trong thời kỳ đế quốc chủ nghĩa; cũng từ đó, chủ nghĩa Mác trở thành chủ nghĩa Mác- Lê-nin. Trong suốt thế kỷ XX và những năm đầu của thế kỷ XXI đầy biến động vừa qua, chủ nghĩa Mác-Lê-nin đã chứng tỏ sức sống mãnh liệt của mình, là vũ khí tư tưởng của GCCN, nhân dân lao động và các dân tộc bị  áp bức trên toàn thế giới. Là đỉnh cao của trí tuệ loài người, chủ nghĩa Mác - Lê-nin trở thành hệ tư tưởng của hàng nghìn triệu người trên trái đất, chỉ đạo cuộc đấu tranh của GCCN và nhân dân lao động toàn thế giới chống chủ nghĩa đế quốc, giành hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và CNXH. Đánh giá về những cống hiến vĩ đại của C.Mác đối với lịch sử và sức sống của chủ nghĩa Mác, V.I.Lê-nin đã nhấn mạnh: "Học thuyết của C.Mác là học thuyết vạn năng, vì nó là học thuyết chính xác". Sức mạnh không bao giờ vơi cạn của chủ nghĩa Mác là ở chỗ  nó kết hợp tính cách mạng triệt để với tính khoa học nghiêm túc; kết hợp nguyên tắc với sự sáng tạo; kết hợp lý luận với thực tiễn phát triển không ngừng. Ph.Ăng-ghen, người đã cùng với C.Mác sáng lập ra học thuyết mang tên C.Mác đã giải thích rằng: "Học thuyết của chúng tôi không phải là một giáo điều mà là kim chỉ nam cho mọi hành động".

Từ khi ra đời đến nay, chủ nghĩa Mác đã trải qua nhiều thử thách, nhất là từ khi chế độ XHCN ở Liên Xô và Đông Âu sụp đổ, CNXH thế giới lâm vào khủng hoảng, thoái trào. Các nhà chính trị và tư tưởng tư sản phản động vào lúc đó đã tung ra đủ thứ lý luận nhằm bác bỏ chủ nghĩa Mác - Lê-nin và rêu rao về sự thắng lợi của CNTB, sự diệt vong của CNCS; về "chiến thắng không cần chiến tranh" (Ních-xơn); về "Sự tận cùng của lịch sử" (Fu-kuya-ma),v.v. và v.v.

Bất chấp những luận điệu xuyên tạc nói trên, thực tiễn đã chứng minh, chủ nghĩa Mác là một khoa học về những quy luật phát triển của tự nhiên và xã hội; về cách mạng của quần chúng bị áp bức và bóc lột; về thắng lợi của CNXH và CNCS. Giá trị bền vững của chủ nghĩa Mác chính là ở sự chính  xác của hàng loạt kết luận khoa học được đúc kết thành những quy luật của sự nghiệp giải phóng người lao động, giải phóng xã hội khỏi mọi ách áp bức, bóc lột, tha hóa, thực hiện một xã hội công bằng, nhân đạo, văn minh trong CNXH và CNCS.

Với linh hồn là phép biện chứng duy vật, với hòn đá tảng kinh tế là học thuyết giá trị thặng dư, với những phát kiến vĩ đại về chủ nghĩa duy vật lịch sử mà nội dung cơ bản là học thuyết hình thái KT-XH, sứ mệnh lịch sử của GCCN,… chủ nghĩa Mác cho đến nay vẫn vững vàng là đỉnh cao của trí tuệ loài người, là một học thuyết khoa học và hoàn bị, chưa có gì so sánh được. Và đúng như một học thuyết khoa học đích thực, chủ nghĩa Mác cần được bổ sung, phát triển, thông qua tổng kết thực tiễn thời đại và thông qua sự kết hợp với những tư tưởng tiến bộ của các dân tộc. Có như vậy, chủ nghĩa Mác mới luôn dạt dào sức sống, mới có thể dẫn dắt và thúc đẩy GCCN và nhân dân lao động trên thế giới đi trên con đường lớn của lịch sử, hướng đích tới CNXH và CNCS.

Ngay từ năm 1913, V.I.Lê-nin đã cảnh báo rằng: Trong toàn thế giới văn minh, học thuyết của C.Mác đã gây ra sự cừu địch mạnh nhất và lòng căm thù toàn thế giới khoa học tư sản… Không thể trông mong có một thái độ nào khác, vì trong một xã hội xây dựng trên đấu tranh giai cấp thì không thể có một khoa học xã hội nào có thể "vô tư" đứng trên mọi giai cấp.

Việc các thế lực thù địch ra sức bài bác, xuyên tạc và phủ nhận chủ nghĩa Mác chỉ càng chứng tỏ sức sống mãnh liệt của chủ nghĩa Mác, điều mà các nhà tư tưởng chống cộng rất lo sợ. Và mỗi lần phải đấu tranh chống lại các trào lưu tư tưởng đối lập thì chủ nghĩa Mác lại một lần nữa vươn tới một tầm cao mới. Chủ nghĩa Mác chẳng những phải đấu tranh chống lại những tư tưởng tư sản phản động mà còn phải đương đầu với những "học giả" khoác áo mác-xít. Cuộc đấu tranh tư tưởng, đấu tranh lý luận và thực tiễn để bảo vệ và phát triển chủ nghĩa Mác một lần nữa lại được đặt ra với tất cả tính bức xúc và hệ trọng của thời đại ngày nay. Ai đó có thể xóa bỏ tượng đài C.Mác trên quảng trường, nhưng không ai có thể xóa bỏ được biểu tượng của C.Mác trong trái tim, khối óc của hàng trăm, hàng nghìn triệu con người trên trái đất này. Một khi xã hội còn phân chia giai cấp, còn xung đột và đối kháng giai cấp và CNTB còn bóc lột lao động để tìm kiếm giá trị thặng dư, thì lý luận của C.Mác vẫn đương nhiên còn giá trị thức tỉnh và phê phán. Chính vì lẽ phải hiển nhiên đó mà hiện nay không ít học giả, chính khách tư sản có đầu óc khách quan và trung thực vẫn khẳng định C.Mác, trích dẫn C.Mác, thừa nhận thế giới hiện nay vẫn phải trở lại với những vấn đề C.Mác đã đặt ra. Không thể có một tương lai mà không có C.Mác.  C.Mác vẫn là nhà tư tưởng của thế kỷ XXI, và chưa ai vượt qua được C.Mác.

Đảng Cộng sản Việt Nam do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập, trải qua 78 năm lãnh đạo cách mạng luôn luôn lấy chủ nghĩa Mác - Lê-nin làm kim chỉ nam cho hành động của mình và đã đạt được nhiều thắng lợi to lớn, có ý nghĩa lịch sử và mang tầm vóc thời đại. Trong bất cứ hoàn cảnh nào, Đảng ta luôn luôn trung thành vô hạn với chủ nghĩa Mác - Lê-nin, với lợi ích của GCCN và dân tộc, với sự nghiệp cách mạng của GCCN, nhân dân lao động và các dân tộc bị áp bức trên toàn thế giới. Nhờ có chủ nghĩa Mác - Lê-nin được vận dụng và phát triển sáng tạo vào hoàn cảnh cụ thể của đất nước, cách mạng Việt Nam đã khắc phục được cuộc khủng hoảng về đường lối kéo dài suốt nhiều thập kỷ; đồng thời, đã hoà vào những dòng thác cách mạng to lớn của thời đại, đánh đổ thực dân, phong kiến, đế quốc, giành độc lập cho dân tộc và xây dựng CNXH.

Qua hơn 20 năm đổi mới, nhiều vấn đề của chủ nghĩa Mác - Lê-nin và CNXH đã được nhận thức lại. Từ sự thành công cũng như sự sụp đổ trong việc xây dựng CNXH ở một số nước trên thế giới trước đây, đã giúp chúng ta hiểu rằng, không thể rập khuôn mô hình CNXH ở bất cứ một nước nào để xây dựng CNXH ở nước ta. Nghiên cứu kỹ di sản tư tưởng của C.Mác, chúng ta đã thấy các ông chỉ đề ra những nguyên tắc có tính định hướng cho việc xây dựng CNXH và CSCN. Đó không phải là mô hình được hiểu như là bản thiết kế của một ngôi nhà đã được tính toán đến từng chi tiết, để sau này chỉ việc đem ra thi công. Đến cuối đời, Ph.Ăng-ghen đã nói rằng, ông và C.Mác không bao giờ đưa ra những chi tiết về xã hội tương lai; các ông cũng "không có ý định áp đặt cho loài người những quy luật dứt khoát nào cả"; CNXH không phải là những mong muốn tốt đẹp để áp đặt cho hiện thực, bắt hiện thực phải khuôn theo, mà đó là phong trào thực tiễn của hàng triệu, hàng triệu quần chúng. Chính vì vậy, Đảng ta đã nêu ra trong Cương lĩnh năm 1991, những đặc trưng cơ bản về xã hội XHCN và những phương hướng lớn để xây dựng CNXH, với tính chất là những nguyên tắc chỉ đạo để đưa đất nước quá độ đi lên CNXH. Trong tư duy lý luận, quan điểm và đường lối của Đảng cũng như trong chỉ đạo hoạt động thực tiễn đổi mới ở Việt Nam của Đảng ta, chúng ta nhận thấy ngày càng sáng tỏ tư tưởng giải phóng và phát triển mà C.Mác thường xuyên nhấn mạnh. Nhờ vậy, CNXH ở nước ta không những được định hướng đúng đắn mà còn vận động đi lên trong bối cảnh toàn cầu hoá, hội nhập kinh tế quốc tế sâu rộng như hiện nay.

Thiết thực kỷ niệm 190 năm ngày sinh của C.Mác trong tình hình thế giới có nhiều biến động phức tạp, chúng ta phải tiếp tục kiên định những vấn đề có tính nguyên tắc; tiếp tục giương cao ngọn cờ của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh theo tinh thần: nghiên cứu, vận dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh; làm rõ những giá trị bền vững của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, những vấn đề cần bổ sung và phát triển cho phù hợp với thực tiễn đất nước và thời đại; đẩy mạnh nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh gắn với triển khai sâu rộng, có hiệu quả Cuộc vận động "Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh" để thực hiện thành công mục tiêu “dân giầu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”, như Đại hội X và các Hội nghị Trung ương khoá X vừa qua đã khẳng định. Tư tưởng và sự nghiệp vĩ đại của C.Mác mãi mãi là ánh sáng soi đường phát triển của Việt Nam; đồng thời, công cuộc đổi mới, CNH, HĐH  ở Việt Nam sẽ góp phần bổ sung sức sống mới cho chủ nghĩa Mác. Và đây là hiện thực sinh động của cuộc gặp gỡ đẹp đẽ giữa giai cấp và dân tộc, giữa dân tộc và thời đại của chúng ta.

PGS, TS. Tô Huy Rứa

Bí thư TƯ Đảng, Trưởng ban Tuyên giáo TƯ,

Chủ tịch Hội đồng lý luận TƯ

 

Ý kiến bạn đọc (0)