QPTD -Thứ Tư, 24/08/2011, 00:41 (GMT+7)
Biên giới Việt Nam - Trung Quốc, sự hợp tác truyền thống và hiện đại vì hoà bình, hữu nghị, ổn định và phát triển

Hợp tác xây dựng biên giới Việt-Trung hòa bình, hữu nghị, ổn định và phát triển là nguyện vọng tha thiết của Đảng, Nhà nước và nhân dân hai nước. Từ hàng chục năm nay, dưới sự lãnh đạo của hai Đảng, Chính phủ hai nước Việt Nam, Trung Quốc đã hợp tác chặt chẽ, toàn diện, giải quyết những vấn đề về biên giới, đạt được kết quả to lớn, góp phần mở ra một trang mới trong lịch sử quan hệ Việt Nam-Trung Quốc.

  

Ngày 14 tháng 7 năm 2010, tại cửa khẩu Thanh Thủy, tỉnh Hà Giang và cửa khẩu Thiên Bảo, tỉnh Vân Nam, hai nước Việt Nam và Trung Quốc chính thức công bố Nghị định thư phân giới cắm mốc (PGCM) trên đất liền và các hiệp định liên quan: Hiệp định về quy chế quản lý biên giới, Hiệp định về cửa khẩu và quy chế quản lý cửa khẩu. Sự kiện này đánh dấu Hiệp ước biên giới trên đất liền Việt Nam - Trung Quốc (năm 1999) và các văn kiện song phương liên quan đã thực sự đi vào cuộc sống. Từ một biên giới mang tính vùng đệm trong thời phong kiến, đến “có biên mà không có giới” trong thời Pháp thuộc và biên giới hôm nay do hai nước bình đẳng chủ quyền, xác lập bằng các văn kiện pháp lý, trên cơ sở tôn trọng độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của nhau, tôn trọng đường biên giới lịch sử truyền thống và phù hợp với luật pháp quốc tế, đã trở thành hiện thực.

Thực tiễn lịch sử đã minh chứng, từ thế kỷ thứ X, biên giới Việt-Trung chỉ là đường biên giới vùng, mang tính tập quán, chưa được xác định bằng các văn bản pháp lý quốc tế. Với Công ước Pháp-Thanh 1887 và 1895, thực dân Pháp và Nhà Thanh đã xác định, đánh dấu đường biên giới bằng 314 cột mốc, ghi nhận trên bản đồ tỷ lệ 1:100.000. Tuy nhiên, do điều kiện và phương tiện thô sơ nên lời văn và bản đồ về nhiều đoạn biên giới không đầy đủ, rõ ràng, chính xác, nhiều khu vực còn để trắng, chưa cắm mốc, hoặc chưa được giải quyết triệt để, như: Thác Bản Giốc, cửa sông Bắc Luân; qua thời gian và chiến tranh, nhiều mốc đã bị hư hại, dịch chuyển; nhiều nơi địa hình tại thực địa không phù hợp với bản đồ, gây khó khăn cho công tác quản lý. Ngay sau khi hai nước có hòa bình, vấn đề biên giới lãnh thổ đã được hai đảng, hai chính phủ quan tâm giải quyết. Đặc biệt, ngày 19-10-1993, hai bên đã ký Thỏa thuận về những nguyên tắc cơ bản giải quyết vấn đề biên giới lãnh thổ giữa Việt Nam-Trung Quốc. Theo đó, phần nói về biên giới trên bộ quy định: "Hai bên đồng ý căn cứ vào Công ước hoạch định biên giới ký giữa Trung Quốc và Pháp ngày 26 tháng 6 năm 1887 và Công ước bổ sung Công ước hoạch định biên giới ngày 20 tháng 6 năm 1895 cùng các văn kiện và bản đồ hoạch định và cắm mốc biên giới kèm theo đã được Công ước và Công ước bổ sung nói trên xác nhận hoặc quy định, cũng như các mốc quốc giới cắm theo quy định, đối chiếu xác định lại toàn bộ Đường biên giới trên bộ giữa hai nước Việt Nam-Trung Quốc". Theo Thỏa thuận trên và qua nhiều lần kiểm tra, đối chiếu lại toàn bộ đường biên giới trên đất liền giữa hai nước cho thấy, hơn 2/3 đường biên giới này trùng nhau, chỉ còn 289 khu vực (với tổng diện tích khoảng 232 km2) chưa thống nhất; trong đó, vì lý do kỹ thuật 74 khu vực vẽ chồng lấn, 51 khu vực chưa được vẽ; 164 khu vực có tranh chấp, hoặc có nhận thức khác nhau về hướng đi của đường biên giới, cần phải đàm phán. Sau nhiều lần kiên trì đàm phán, ngày 30-12-1999, hai bên đã ký Hiệp ước hoạch định biên giới đất liền Việt Nam-Trung Quốc; trong đó, đã quy thuộc 114,9 km2 thuộc Việt Nam, 117,2 km2 thuộc Trung Quốc (trừ 4 khu vực có sông, suối tại thác Bản Giốc và cửa sông Bắc Luân)… Kết quả này là tương đối công bằng, hợp lý, phù hợp với các nguyên tắc của luật quốc tế hiện đại; là cơ sở pháp lý quan trọng để hai bên tiến hành công tác PGCM, xác định một đường biên giới rõ ràng, được đánh dấu bằng hệ thống mốc giới hiện đại, thuận lợi cho quản lý trên thực địa. Với tinh thần hợp tác chặt chẽ, toàn diện, nhất là hợp tác của các tỉnh biên giới, của các lực lượng PGCM, ngày 31-12-2008, hai bên đã hoàn thành công tác PGCM trên thực địa và thống nhất xác lập biên giới tại Thác Bản Giốc và cửa sông Bắc Luân (vấn đề tồn tại đã lâu chưa được giải quyết) để đường biên giới được hoàn chỉnh. Toàn bộ đường biên giới giữa hai nước dài 1.449,566 km (trong đó, đường biên giới trên đất liền là 1.065,652 km, đường biên giới nước là 383,914 km). Đường biên giới trên đất liền được đánh dấu bằng 1971 cột mốc, cho 1378 vị trí mốc chính và 402 vị trí mốc phụ. Đầu tiên là mốc số 0, được xác định tại giao điểm đường biên giới của ba nước: Việt Nam, Lào và Trung Quốc. Đây là mốc lớn, được đặt trên đỉnh núi Khoan La San (Shi Ceng Da Shan), có độ cao 1.866,23 m, tọa độ địa lý 220 24' 02,295" vĩ độ Bắc, 1020 08' 38,109" kinh độ Đông (theo Hiệp định về ngã ba biên giới năm 2007 giữa Cộng hòa XHCN Việt Nam, Cộng hòa Dân chủ nhân dân Lào và Cộng hòa nhân dân Trung Hoa). Cuối cùng là mốc 1378 được đặt trên phía Đông Nam bãi Dậu Gót (Heng Shi Sha Zhou), có độ cao -1,01 m, tọa độ địa lý 210 vĩ độ Bắc, 1080 04' 08,974'' kinh độ Đông. Từ mốc cuối cùng này, biên giới theo trung tuyến sông Bắc Luân kéo đến giới điểm 62 và cũng là điểm bắt đầu của biên giới biển trong Vịnh Bắc Bộ. 30' 15,244''

Với nỗ lực chung đó của cả hai bên, ngày 18-11-2009, Chính phủ hai nước đã ký kết 3 văn kiện gồm: Nghị định thư PGCM; Hiệp định về quy chế quản lý biên giới và Hiệp định về cửa khẩu và quy chế quản lý cửa khẩu. Đây là thành quả của hơn nửa thế kỷ quan tâm giải quyết của Đảng và Chính phủ hai nước (từ 1957 đến 2010), với 36 năm kiên trì đàm phán, trong đó có 4 đợt đàm phán lớn và hàng nghìn cuộc đàm phán các cấp. Việc ký kết Nghị định thư PGCM đánh dấu sự kết thúc toàn bộ công tác PGCM biên giới đất liền Việt Nam-Trung Quốc. Nghị định thư PGCM cũng lần đầu tiên quy định rõ các cồn, bãi trên sông, suối quy thuộc giữa hai nước phù hợp với luật pháp quốc tế và sau khi Nghị định thư này có hiệu lực, bất kỳ sự thay đổi nào của địa hình và sông, suối trên thực địa đều không làm thay đổi vị trí của đường biên giới đã PGCM, trừ khi hai bên có thỏa thuận khác. Nghị định thư PGCM và các văn kiện đính kèm gồm bộ bản đồ địa hình khu vực biên giới Việt-Trung (có thể hiện đường biên giới và vị trí các mốc giới); tập "Bảng đăng ký mốc giới"; tập "Bảng tọa độ, độ cao mốc giới" và tập "Bảng quy thuộc các cồn, bãi trên sông, suối biên giới" cùng với Hiệp ước hoạch định biên giới đất liền Việt-Trung là bộ Hiệp định biên giới đầy đủ nhất, lớn nhất, phù hợp với luật pháp quốc tế mà Việt Nam ký với một nước láng giềng trong lịch sử của mình và sẽ được lưu chiểu tại Liên hợp quốc theo quy định của luật pháp quốc tế.

Để quản lý biên giới hai nước trong thời kỳ mới, phù hợp với Nghị định thư PGCM, hai bên đã ký kết Hiệp định về quy chế quản lý biên giới, Hiệp định về cửa khẩu và quản lý cửa khẩu, thay thế cho "Hiệp định tạm thời về việc giải quyết các công việc trên vùng biên giới hai nước giữa Chính phủ nước Cộng hòa XHCN Việt Nam và nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa" ký ngày 7-11-1991. Trong đó, Hiệp định về cửa khẩu và quản lý cửa khẩu quy định rõ hệ thống cửa khẩu song phương và cửa khẩu quốc tế cùng chế độ pháp lý của chúng. Hai bên xác nhận 9 cặp cửa khẩu quốc tế đã được mở trên vùng biên giới Việt-Trung gồm: Ma Lù Thàng - Kim Thủy Hà, Lào Cai - Hà Khẩu (đường bộ), Lào Cai - Hà Khẩu (đường sắt), Thanh Thủy - Thiên Bảo, Trà Lĩnh - Long Bang, Tà Lùng - Thủy Khẩu, Đồng Đăng - Bằng Tường (đường sắt), Hữu Nghị - Hữu Nghị Quan, Móng Cái - Đông Hưng và tên 13 cửa khẩu khác sẽ được mở khi có đủ điều kiện, thời gian và thể thức mở cụ thể sẽ do hai bên thoả thuận qua đường ngoại giao. Hiệp định về quy chế quản lý biên giới với 11 chương và 54 điều, quy định cụ thể nội dung các hoạt động trên biên giới, các công trình biên giới, chế độ qua lại biên giới, chế độ kiểm tra, hợp tác giải quyết các vụ việc trên biên giới. Hiệp định này đã tiếp thu các kinh nghiệm về quản lý biên giới giữa hai nước trong nửa thế kỷ qua, nhất là các hiệp định về quy chế quản lý biên giới mà hai nước đã ký với các nước láng giềng như: Hiệp định về quy chế quản lý biên giới Việt-Lào (năm 1977), Hiệp định về quy chế quản lý biên giới  Trung-Nga (năm 2008). Nội dung của Hiệp định mang tính hiện đại, đáp ứng được các yêu cầu mới, đặc biệt các quy định mới về cơ chế tổ chức quản lý thông qua các Đại diện biên giới. Toàn tuyến biên giới Việt-Trung sẽ được chia làm 8 đoạn, do 8 Đại diện biên giới quốc gia của hai nước cử ra hợp tác quản lý.

Cùng với ý nghĩa lần đầu tiên trong lịch sử hai nước xác định được một đường biên giới rõ ràng, chính xác trên đất liền, với một hệ thống mốc giới hiện đại nêu trên, việc ký kết 3 văn kiện lần này đã đặt nền tảng vững chắc cho việc xây dựng đường biên giới hòa bình, hữu nghị, ổn định lâu dài, hợp tác và phát triển, góp phần củng cố và thúc đẩy quan hệ hữu nghị, hợp tác truyền thống Việt Nam-Trung Quốc. Hoàn thành PGCM, xác lập biên giới bằng các điều ước quốc tế và ký kết các văn bản pháp lý quản lý biên giới đất liền cho thấy, mối quan hệ láng giềng đoàn kết, hữu nghị giữa hai nước đã tiến thêm một bước vững chắc trên tinh thần khép lại quá khứ, hướng tới tương lai và trên cơ sở tin cậy lẫn nhau. Hai trong ba vấn đề biên giới do lịch sử để lại trong quan hệ Việt-Trung là đường biên giới đất liền và Vịnh Bắc Bộ đã được giải quyết. Các bài học trong giải quyết phân định Vịnh Bắc Bộ và biên giới đất liền sẽ là kinh nghiệm quý báu cho hai nước cũng như các nước có liên quan hợp tác tìm một giải pháp cơ bản lâu dài cho vấn đề biển Đông trên cơ sở tôn trọng chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của nhau, tôn trọng luật pháp quốc tế, đặc biệt là Công ước của Liên hợp quốc về luật Biển  năm 1982.

Việc công bố Nghị định thư PGCM cùng các hiệp định có liên quan chính thức có hiệu lực, đã tạo điều kiện thuận lợi cho các ngành chức năng của cả hai bên tiến hành quản lý biên giới một cách khoa học, hiệu quả, trên cơ sở tôn trọng chủ quyền của nhau, ngăn ngừa hiện tượng xâm canh, xâm cư, vượt biên trái phép, xây kè lấn chiếm và các vi phạm khác do thiếu hiểu biết về đường biên giới. Đồng thời, mở ra cơ hội mới cho công cuộc phát triển của mỗi nước, tạo điều kiện cho các địa phương hai bên biên giới mở rộng hợp tác, phát triển kinh tế, tăng cường giao lưu hữu nghị. Thực tiễn cho thấy, năm 1991 kim ngạch thương mại Việt-Trung chỉ chiếm 30 triệu USD, thì đến năm 2004, Trung Quốc đã trở thành đối tác thương mại lớn nhất của Việt Nam. Mức tăng trưởng kim ngạch mậu dịch hai nước giai đoạn 2001-2010 bình quân đạt trên 25% /năm. Riêng năm 2008, mặc dù trong bối cảnh của cuộc khủng hoảng kinh tế tài chính toàn cầu, nhưng kim ngạch mậu dịch giữa hai nước vẫn đạt trên 20,18 tỷ USD, tăng 535 lần so với năm 1991. Năm 2010, dự kiến kim ngạch mậu dịch hai nước sẽ đạt 25 tỷ USD, vượt xa con số 20 tỷ USD - mục tiêu mà lãnh đạo hai nước đã đề ra. Hơn nữa, một đường biên giới ổn định sẽ tạo điều kiện cho hai nước thực hiện các kế hoạch hợp tác phát triển kinh tế lớn hơn, như: Dự án đường cao tốc Vân Nam - Lào Cai - Xuyên Á; Chương trình một trục hai cánh; Vịnh Bắc Bộ mở rộng; Khu kinh tế cửa khẩu Đồng Đăng - Bằng Tường...

Thành công của Nghị định thư PGCM, các hiệp định và Hiệp ước hoạch định biên giới đất liền, Hiệp định phân định Vịnh Bắc Bộ giữa Việt Nam-Trung Quốc cùng các hiệp ước hoạch định biên giới quốc gia Việt Nam-Lào (1977, 1986) và Việt Nam - Cam-pu-chia (1985, 2005); Hiệp định phân định biển Việt Nam - Thái Lan (1997), Hiệp định phân định thềm lục địa Việt Nam - In-đô-nê-sia (2003) và các nước có liên quan cho thấy, thiện chí và quyết tâm của Việt Nam sẵn sàng giải quyết mọi tranh chấp về biên giới lãnh thổ, các vùng biển và thềm lục địa với các nước láng giềng trên cơ sở tôn trọng độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, phù hợp với luật pháp và thực tiễn quốc tế.

Việc hoàn thành các văn kiện trên là món quà có ý nghĩa trước thềm Đại lễ một ngàn năm Thăng Long-Hà Nội, 60 năm quan hệ ngoại giao Việt-Trung, “Năm hữu nghị Việt Nam-Trung Quốc”, góp phần gìn giữ hoà bình, ổn định ở khu vực và trên thế giới.

PGS, TS. NGUYỄN HỒNG THAO

Phó Chủ nhiệm Uỷ ban Biên giới quốc gia

 

Ý kiến bạn đọc (0)