QPTD -Thứ Năm, 24/11/2011, 23:31 (GMT+7)
Bảo vệ nền văn hóa Việt Nam khi nước ta là thành viên của WTO
 

Cuối năm 2006, nước ta đã gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO). Sự kiện này đem đến cả thời cơ lẫn thách thức, tác động nhiều mặt đến sự phát triển kinh tế - xã hội, trong đó có lĩnh vực văn hoá - thông tin, nhất là sự nghiệp xây dựng và phát triển nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, theo Nghị quyết hội nghị lần thứ 5 của Ban Chấp hành Trung ương (khoá VIII) và Kết luận hội nghị lần thứ 10 của Ban Chấp hành Trung ương (khoá IX). 

Gia nhập WTO, có nghĩa là Việt Nam đã tham gia toàn diện, cả bề rộng lẫn chiều sâu của  tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế. Tính đến hết năm 2006, Việt Nam đã có quan hệ thương mại với gần 200 quốc gia và vùng lãnh thổ, ký kết 89 hiệp định thương mại song phương, 46 hiệp định khuyến khích và bảo hộ đầu tư; hiện có trên 70 quốc gia và vùng lãnh thổ, 100 tập đoàn xuyên quốc gia có hoạt động đầu tư tại Việt Nam. Quá trình hội nhập kinh tế quốc tế sẽ thúc đẩy giao lưu, tiếp xúc văn hoá của Việt Nam phát triển cả lượng và chất. Cùng với việc hội nhập kinh tế quốc tế, mở cửa thị trường văn hoá, thông tin, du lịch,... sự tham gia ngày càng nhiều của các doanh nghiệp nước ngoài, văn hoá của các nước, các dân tộc trên thế giới cũng sẽ có cơ hội du nhập vào Việt Nam một cách mạnh mẽ hơn.        

Nói đến văn hoá là nói đến con người. Con người vừa là chủ thể sáng tạo, vừa là khách thể tiếp nhận văn hoá, nhưng mỗi con người cũng  là hiện thân của những giá trị văn hoá của dân tộc. Mỗi khách du lịch, mỗi doanh nhân nước ngoài khi đến Việt Nam đều mang vào Việt Nam những lối sống, những sinh hoạt văn hoá khác nhau. Điều này sẽ tác động không nhỏ đến quan niệm, lối sống, văn hoá, đạo đức trong các tầng lớp dân cư, đặc biệt là thế hệ trẻ vốn năng động và nhạy cảm với những luồng văn hoá mới. Đây vừa là lợi thế mà cũng vừa là điểm bất lợi, bởi thanh niên là lực lượng nhạy cảm tiếp thu nhanh những yếu tố mới về văn hoá, nhưng lại hạn chế về kinh nghiệm, vốn sống nên rất dễ bị chi phối, làm lu mờ những yếu tố mang bản sắc văn hoá của dân tộc, khiến cho các giá trị văn hoá truyền thống bị lấn át bởi các giá trị văn hoá ngoại lai không phù hợp, thậm chí đối nghịch với các giá trị văn hoá truyền thống của dân tộc Việt Nam mà các thế hệ tiền bối đã dày công xây dựng. Nguy cơ về sự xâm nhập các khuynh hướng “đồng nhất văn hoá”, “nhất thể hoá văn hoá”... như là một hệ quả của quá trình toàn cầu hoá, hội nhập kinh tế quốc tế cũng rất dễ xảy ra.

Mặt khác, trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, hàng loạt sản phẩm văn hoá như sách báo, phim ảnh, băng đĩa,v.v. của các nước sẽ tràn vào nước ta. Thành tựu của công nghệ thông tin là "bà đỡ" , giúp cho các sản phẩm văn hoá dễ đến từng làng quê, gia đình. Người dân hôm nay có thể tiếp xúc, đón nhận, hưởng thụ một cách dễ dàng những sản phẩm văn hoá đến từ các nước khác nhau. Trong các sản phẩm văn hoá ấy, có những tinh hoa của văn hoá nhân loại, nhưng không phải tất cả các sản phẩm văn hoá nước ngoài đều có nội dung và hình thức phù hợp với thuần phong, mỹ tục Việt Nam. Quá trình toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế sẽ góp phần làm đa dạng và phong phú hơn đời sống văn hoá của các nước, nhờ sự tương tác giữa các nền văn hoá, sự tiếp thu những nét mới, hiện đại và tinh hoa của văn hoá các dân tộc khác nhau. Nhưng mặt khác, quá trình này khiến cho xu hướng "nhất thể hoá" văn hoá toàn cầu phát triển, sẽ làm cho việc giữ gìn và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc trở nên khó khăn hơn.

Hơn lúc nào hết, vấn đề bản sắc văn hoá dân tộc được đề cao và vấn đề bảo vệ bản sắc văn hoá dân tộc thu hút sự chú ý của nhiều nhà văn hoá, nhà chính trị  của  nhiều quốc gia. ở nước ta, công cuộc đổi mới và hội nhập kinh tế quốc tế đã tạo ra nhiều cơ hội cho nền văn hoá đất nước giao lưu, tiếp xúc với nền văn hoá của các quốc gia trên thế giới. Trong quá trình này, một mặt, phải tiếp thu có chọn lọc những yếu tố tích cực, loại bỏ các yếu tố tiêu cực; mặt khác, phải gìn giữ và phát huy bản sắc văn hoá truyền thống của dân tộc mình.

Tác động của quá trình hội nhập kinh tế quốc tế còn cần được nhìn nhận trên phương diện  mọi  hoạt động văn hoá - thông tin, từ sáng tạo tác phẩm đến phổ biến tác phẩm, từ dịch vụ văn hoá đến hưởng thụ, tiếp nhận văn hoá, đều phải phù hợp với những thông lệ, quy định của luật lệ quốc tế. Mở cửa thị trường, các dịch vụ văn hoá, các hoạt động của ngành công nghiệp sáng tạo văn hoá có cơ hội phát triển. Việc sản xuất, phân phối, cung cấp các sản phẩm văn hoá, như sách báo, phim ảnh, băng, đĩa,v.v. và dịch vụ văn hoá, để thoả mãn nhu cầu người xem, người đọc, người nghe trong nước cũng đứng trước đòi hỏi phải vượt lên chính mình, nhằm cạnh tranh với các sản phẩm văn hoá và dịch vụ văn hoá của nước ngoài đã và đang du nhập ngày càng nhiều vào Việt Nam. Không chỉ có vậy, các sản phẩm văn hoá và dịch vụ văn hoá này còn phải từng bước vươn ra thị trường thế giới, để giới thiệu về đất nước và con người Việt Nam với bạn bè thế giới. Khi ấy, sự cạnh tranh lại càng khốc liệt hơn.

Vấn đề bản quyền càng trở nên quan trọng trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. Chúng ta không chỉ đối mặt với đòi hỏi bảo vệ bản quyền của các nước trong lĩnh vực văn hoá mà còn phải đối mặt với việc bảo vệ bản quyền các sản phẩm văn hoá cuả Việt Nam ngay tại “sân nhà” và cả trên “sân khách”. Vấn đề này không chỉ dừng ở việc xây dựng các văn bản pháp quy, mà còn ở việc nâng cao ý thức và trách nhiệm của xã hội, của cộng đồng về bản quyền và bảo vệ bản quyền.

Như vậy,  sự  nghiệp xây dựng, bảo vệ và phát triển nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc trong bối cảnh Việt Nam gia nhập WTO đặt ra cho chúng ta nhiều vấn đề cấp bách, có nhiều thời cơ, vận hội và cả những thách thức, nguy cơ không nhỏ. Nhi?m v? quan trọng hiện nay d?i v?i  toàn Đảng, toàn dân, trong đó có ngành Văn hoá - Thông tin là  giữ gìn, bảo vệ và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc với những định hướng cơ bản sau:

-  Bồi dưỡng để nâng cao lòng tự tôn, tự hào về lịch sử văn hoá dân tộc cho mọi tầng lớp xã hội, nhất là thế hệ trẻ, trên cơ sở trang bị tri thức, hiểu biết về truyền thống văn hoá Việt Nam để mỗi người dân chủ động bảo vệ và làm phong phú thêm các giá trị  của truyền thống văn hoá bằng cách tiếp thu có chọn lọc giá trị của các nền văn hóa và văn minh nhân loại.

- Kết hợp hài hòa các giá trị truyền thống với các giá trị hiện đại trên cơ sở bảo tồn bản sắc văn hóa dân tộc, giữ lại những tinh hoa, loại trừ dần các yếu tố lỗi thời, tăng cường giao lưu và hợp tác văn hoá với bên ngoài để có thể vượt qua những thách thức và khơi dậy được vai trò động lực của các giá trị truyền thống cho sự phát triển và tiến bộ xã hội.

- Chủ động hội nhập kinh tế quốc tế theo tinh thần phát huy tối đa nội lực, khai thác và sử dụng tốt ngoại lực, nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế, bảo đảm độc lập, tự chủ và định hướng xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích dân tộc, an ninh quốc gia, giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc là một giải pháp hữu hiệu để phát huy vai trò động lực của các giá trị truyền thống cho mọi sự phát triển.

Để công cuộc xây dựng và bảo vệ nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc đi đến thắng lợi, cần chú trọng giải quyết tốt những  vấn đề sau đây:

- Tuyên truyền sâu rộng để mọi tầng lớp nhân dân nhận thức đúng đắn những tác động tích cực và tiêu cực, thời cơ và thách thức đối với văn hoá Việt Nam khi hội nhập kinh tế thế giới. Nâng cao nhận thức của người dân về vai trò của văn hoá trong phát triển kinh tế  - xã hội, để toàn xã hội thống nhất từ nhận thức đến hành động: càng hội nhập kinh tế quốc tế toàn diện, càng phải chăm lo giữ gìn, bảo vệ, phát huy bản sắc văn hoá dân tộc.

- Cần xây dựng một cơ chế cảnh báo sớm và có chế tài xử lý tốt sự xâm nhập của các sản phẩm và dịch vụ văn hóa không lành mạnh, có nguy cơ phương hại, làm tha hoá, biến chất văn hoá Việt Nam, con người Việt Nam. Đồng thời, thiết lập cơ chế thuận lợi cho việc phát triển các ngành công nghiệp sáng tạo và dịch vụ văn hoá, đẩy mạnh thực thi pháp luật bảo vệ sở hữu trí tuệ, tạo môi trường thông thoáng để văn nghệ sĩ sáng tạo cho xã hội các giá trị tinh thần, các tác phẩm xứng đáng với lịch sử hào hùng của dân tộc, nhất là những năm đổi mới của đất nước. Để đạt được những vấn đề đó, một mặt, cần quan tâm nội dung “chống”; mặt khác, phải tăng cường “xây”; để ngăn chặn không cho sản phẩm độc hại xâm nhập, thì phải có những món ăn tinh thần “bổ dưỡng” cho công chúng.

- Khơi dậy mạnh mẽ lòng tự tôn, tự hào về lịch sử văn hoá Việt Nam; trên cơ sở đó bảo vệ, làm phong phú thêm các giá trị truyền thống bằng cách tiếp thu có chọn lọc tinh hoa của các nền văn hóa khác. Tổ chức nghiên cứu và xuất bản những công trình về văn hoá Việt Nam, về bản sắc văn hoá Việt Nam, nhất là văn hoá ứng xử, văn hoá gia đình và văn hoá  hội nhập để tuyên truyền giáo dục trong nhân dân các giá trị văn hoá truyền thống Việt Nam, biến lòng tự hào về văn hoá dân tộc thành "kháng thể" trong mỗi con người, để mỗi người là một "bộ lọc" loại bỏ những yếu tố độc hại, phản khoa học, phi văn hoá từ bên ngoài xâm nhập.

- Kết hợp hài hòa các giá trị văn hoá truyền thống với phát triển lối sống, nếp sống văn hoá hiện đại, trên cơ sở bảo tồn bản sắc văn hóa dân tộc, chọn lọc để gìn giữ những giá trị tinh hoa, loại trừ dần các yếu tố phản khoa học và những yếu tố không còn phù hợp với cuộc sống hiện đại; tăng cường giao lưu với bên ngoài để có thể vượt qua những thách thức và khơi dậy được vai trò động lực của các giá trị truyền thống cho sự phát triển và tiến bộ xã hội.

- Tăng cường công tác quản lý nhà nước về văn hoá nói chung, thông tin đại chúng nói riêng. Tiếp tục phát triển hệ thống thông tin đại chúng cả về chất lượng và số lượng; hoàn thiện mạng lưới phát thanh truyền hình, báo nói, báo hình, báo viết, báo điện tử; tăng cường chất lượng thông tin của các cơ quan báo chí; nâng cao hiệu quả và cải thiện chất lượng hạ tầng công nghệ thông tin. Kiên quyết ngăn chặn các hành vi lạm dụng các phương tiện thông tin đại chúng để đưa thông tin thiếu trung thực, làm ảnh hưởng xấu đến sinh hoạt xã hội, bảo đảm để thông tin đại chúng luôn là nguồn lực thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội, giúp con người vươn tới những khát vọng cao đẹp mới.

- Bảo vệ có hiệu quả di tích lịch sử, văn hoá, danh lam thắng cảnh; có cơ chế thích hợp để huy động các nguồn lực tôn tạo và phát huy di sản văn hoá cả vật thể lẫn phi vật thể,  nhằm giáo dục truyền thống lịch sử và tạo tiền đề vững chắc cho phát triển du lịch bền vững.

 - Khẩn trương xây dựng những thiết chế văn hoá mới xứng đáng với thời đại Hồ Chí Minh và thời kỳ đổi mới của đất nước, như Bảo tàng lịch sử quốc gia, Làng văn hoá du lịch các dân tộc Việt Nam... Những thiết chế văn hoá này là biểu tượng cho nền văn hoá Việt Nam đương đại, nhưng sẽ là di sản văn hoá của các thế hệ mai sau. Thiết chế văn hoá sẽ là nơi lưu giữ, bảo tồn, giới thiệu, sáng tạo văn hoá Việt Nam cho nhân dân trong nước và bạn bè quốc tế.

Công cuộc bảo vệ nền văn hoá dân tộc khi Việt Nam là thành viên của WTO đòi hỏi chúng ta không chỉ hành động khẩn trương, mà còn phải tự tin, tự chủ ; phải luôn coi văn hoá là nền tảng, là chìa khoá mở đường, là chất keo dính, xúc tác cho mọi sự phát triển. Phải nhận thức văn hoá mãi mãi là điểm tựa của tương lai, vì mục tiêu "dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh" trong thời kỳ đổi mới và hội nhập kinh tế  quốc tế.

TS. Lê Doãn Hợp

Ủy viên BCHTƯ Đảng

Bộ trưởng Bộ Văn hóa-Thông tin

 
Ý kiến bạn đọc (0)