QPTD -Chủ Nhật, 18/09/2011, 00:35 (GMT+7)
Bắc Giang xây dựng hậu cần khu vực phòng thủ - kết quả và kinh nghiệm

Bắc Giang có vị trí quan trọng trong thế trận phòng thủ của Quân khu 1 và khu vực phía Bắc. Dân số của Tỉnh có khoảng 1,6 triệu người; địa hình chủ yếu là miền núi (chiếm 72% diện tích tự nhiên); hệ thống giao thông đường bộ, đường sắt thông thương với các tỉnh trong khu vực và quốc tế. 

Những năm gần đây, kinh tế Bắc Giang phát triển tương đối toàn diện, tốc độ tăng trưởng khá (GDP bình quân hằng năm tăng 8,3%); cơ cấu kinh tế và cơ cấu lao động chuyển dịch theo hướng CNH, HĐH; cơ sở hạ tầng kinh tế-xã hội (KT-XH) phát triển tương đối đồng bộ; các thành phần kinh tế được khuyến khích phát triển; sự nghiệp giáo dục - đào tạo, y tế, văn hoá, xã hội đạt nhiều tiến bộ; các chính sách xã hội được thực hiện có hiệu quả, đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân từng bước được nâng cao. Đi đôi với phát triển KT-XH, Tỉnh rất coi trọng nhiệm vụ quốc phòng- an ninh (QP-AN). Cấp ủy, chính quyền các cấp đã có nhiều chủ trương, giải pháp đẩy mạnh kết hợp phát triển KT-XH với tăng cường QP-AN, thể hiện trong quy hoạch, kế hoạch phát triển từng ngành, lĩnh vực, địa bàn, địa phương; chăm lo xây dựng khu vực phòng thủ (KVPT) vững mạnh toàn diện. Tuy mới tái thành lập hơn 10 năm, nhưng Bắc Giang là một trong những tỉnh được Quân khu 1 đánh giá cao về xây dựng KVPT; trong đó có nội dung xây dựng hậu cần KVPT. 

Điểm nổi bật, xuyên suốt là Bộ Chỉ huy Quân sự (BCHQS) Bắc Giang đã chủ động làm tham mưu cho Tỉnh ủy, Uỷ ban nhân dân Tỉnh xác định các chủ trương, giải pháp xây dựng tiềm lực của KVPT; kế hoạch huy động bảo đảm nhu cầu hậu cần cho các lực lượng tham gia tác chiến trên địa bàn (bao gồm lực lượng thường trực, dân quân, tự vệ (DQTV) của địa phương và có thể có một số lực lượng của Quân khu, của Bộ). Bám sát chủ trương, định hướng của cấp trên về xây dựng hậu cần KVPT và xuất phát từ tình hình thực tế, Tỉnh tập trung nguồn lực xây dựng tiềm lực kinh tế, kỹ thuật, được cụ thể hóa bằng sức mạnh của hậu cần KVPT cả về nguồn nhân lực và vật chất, trang bị, phương tiện hậu cần từ sức mạnh của KT-XH địa phương. Cơ quan hậu cần đã chủ động làm tham mưu cho BCHQS Tỉnh (cơ quan thường trực về xây dựng KVPT Tỉnh) trong việc nghiên cứu, xây dựng cơ chế lãnh đạo, chỉ huy, điều hành, tổ chức hậu cần KVPT phù hợp với điều kiện thực tiễn của Tỉnh và từng huyện (thành phố), bảo đảm sự cân đối giữa nhiệm vụ quân sự và công tác bảo đảm hậu cần một cách khoa học. Theo đó, hậu cần nhân dân không còn là các hoạt động riêng lẻ, mà trở thành hệ thống liên hoàn, được tổ chức chặt chẽ ở các cấp, các ngành của địa phương. Nhờ có định hướng đúng và giải pháp đồng bộ, công tác xây dựng hậu cần KVPT tỉnh Bắc Giang đã đạt được kết quả thiết thực, toàn diện.

Trong quá trình triển khai xây dựng hậu cần KVPT, Tỉnh đã tập trung thực hiện tốt một số vấn đề chủ yếu, và đây cũng là những kinh nghiệm quý để tiếp tục nâng cao chất lượng, hiệu quả của công tác này trong thời gian tới.  

Trước hết, quán triệt sâu sắc, vận dụng sáng tạo các quan điểm, đường lối của Đảng, nhiệm vụ quốc phòng ở các ngành KT-XH tương ứng với hậu cần ở cơ quan quân sự địa phương, coi đó là nhiệm vụ quan trọng thường xuyên và được đưa vào chương trình, kế hoạch công tác của các sở, ban, ngành. Qua đó, nâng cao nhận thức về quan điểm, đường lối quân sự, quốc phòng (QS,QP) của Đảng cho cán bộ, nhất là cán bộ chủ chốt các ngành KT-XH tương ứng với hậu cần và cơ quan hậu cần quân sự địa phương (chủ yếu là các ngành kế hoạch-đầu tư, giao thông- vận tải, xây dựng, y tế...). Cơ quan hậu cần quân sự Tỉnh đã phối hợp chặt chẽ với các cơ quan có liên quan trong việc theo dõi, đôn đốc cử cán bộ ở các ngành kinh tế đi bồi dưỡng kiến thức QP-AN; hằng năm, tham gia kiểm tra việc thực hiện nhiệm vụ quốc phòng ở các sở, ban, ngành, các huyện (thành phố), đồng thời phục vụ công tác kiểm tra của Bộ, của Quân khu về thực hiện nhiệm vụ QS,QP địa phương...Nội dung tuyên truyền, giáo dục, tập trung vào Nghị quyết Trung ương 8 (khóa IX) về Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, Luật Quốc phòng, Pháp lệnh DQTV, Pháp lệnh Dự bị động viên, Nghị định 152/2007/NĐ-CP của Chính phủ, nhiệm vụ QS,QP của Bộ Quốc phòng, của Quân khu...Thông qua công tác tuyên truyền, giáo dục đã nâng cao nhận thức, trách nhiệm của đội ngũ cán bộ, đảng viên, công chức các cấp, các ngành về thực hiện nhiệm vụ QS,QP địa phương, trong đó có xây dựng hậu cần KVPT. 

Hai là, thường xuyên kiện toàn tổ chức, duy trì và phát huy hiệu quả hoạt động của Hội đồng Cung cấp, Ban Quân-dân y kết hợp, Ban Chỉ huy Quân sự các sở, ngành KT-XH (những tổ chức hoạt động chủ yếu theo chế độ làm việc kiêm nhiệm) để giúp cấp ủy, chính quyền các cấp, các ngành lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện nhiệm vụ QS,QP địa phương, trong đó có xây dựng hậu cần KVPT. Nhận thấy hoạt động của Hội đồng Cung cấp ở một số huyện không phù hợp với cơ chế quản lý kinh tế mới (thể hiện rõ nét khi tổ chức diễn tập KVPT); Ban CHQS, cán bộ làm công tác quốc phòng ở các sở, ban, ngành địa phương chưa phát huy hết chức năng, nhiệm vụ, thậm chí chưa ban hành đầy đủ quy chế hoạt động và xác định đúng mối quan hệ công tác..., Tỉnh đã tập trung kiện toàn các tổ chức trên, nhất là Hội đồng Cung cấp và Ban Quân-dân y kết hợp; chú ý lựa chọn, bố trí cán bộ đúng thành phần, có năng lực. Ngoài ra, căn cứ tình hình, yêu cầu cụ thể của địa phương trong từng giai đoạn, Chủ tịch Uỷ ban nhân dân Tỉnh ra quyết định thành lập một số ban chỉ đạo, ban tổ chức để tham mưu cho Tỉnh trong việc chỉ đạo, điều hành, tổ chức thực hiện những nội dung liên quan đến nhiều ngành và những việc cần huy động sức mạnh của cả hệ thống chính trị, nhất là trong phòng chống thiên tai, phòng chống dịch bệnh, an toàn giao thông, xoá đói, giảm nghèo...(Phó Chỉ huy trưởng về Quân sự phụ trách hậu cần, kỹ thuật được cử làm Phó Ban chỉ đạo; Chủ nhiệm Hậu cần, Chủ nhiệm Quân y cơ quan quân sự Tỉnh, huyện thường được chỉ định tham gia vào các ban này). Các tổ chức trên đều có quy chế và duy trì hoạt động nền nếp; mối quan hệ phối hợp giữa cơ quan hậu cần quân sự địa phương với các cơ quan Đảng, chính quyền được tăng cường, kịp thời giải quyết các công việc, nhất là trao đổi, thông báo tình hình; phối hợp thẩm định các quy hoạch, kế hoạch, dự án kết hợp kinh tế-quốc phòng; chỉ đạo, phối hợp xây dựng, hoàn chỉnh hệ thống văn kiện hậu cần tác chiến ở cơ quan hậu cần quân sự địa phương và ở "khối B"... Qua đó, từng bước nâng cao năng lực làm tham mưu cho cấp uỷ, chính quyền địa phương, cũng như năng lực chỉ đạo tổ chức thực hiện của các cơ quan chức năng, của cán bộ hậu cần trong công tác bảo đảm thường xuyên, diễn tập, thực hành phòng, chống thiên tai, dịch bệnh, xây dựng hậu cần KVPT và sẵn sàng đáp ứng yêu cầu khi có tình huống xảy ra... 

Ba là, kết hợp chặt chẽ giữa kinh tế với quốc phòng, quốc phòng với kinh tế trong xây dựng tiềm lực, thế trận hậu cần KVPT. Trên cơ sở kế hoạch phát triển KT-XH, kế hoạch tác chiến phòng thủ cơ bản của Tỉnh đã được phê duyệt, BCHQS Tỉnh chủ động tham mưu cho cấp ủy, chính quyền Tỉnh về quy hoạch xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân, trong đó có thế trận hậu cần KVPT, nhất là trên các khu vực then chốt; hằng năm, bổ sung hoàn thiện thông qua rút kinh nghiệm từ tổ chức luyện tập, diễn tập tác chiến KVPT của các địa phương. Đến nay, 100% địa điểm, diện tích đất quốc phòng do BCHQS Tỉnh quản lý và các đơn vị của Bộ, Quân khu đóng quân trên địa bàn đều được địa phương tạo điều kiện thuận lợi hợp thức thủ tục pháp lý. BCHQS Tỉnh đã phối hợp chặt chẽ với các ngành có liên quan, tham gia thẩm định các quy hoạch, kế hoạch, dự án phát triển KT-XH gắn với củng cố QP-AN trên địa bàn. Cùng với đó, Tỉnh tập trung nguồn lực xây dựng căn cứ chiến đấu, căn cứ hậu cần cơ bản của KVPT; thực hiện quy hoạch và triển khai xây dựng căn cứ chiến đấu, đầu tư xây dựng các công trình cần thiết, trồng cây tạo độ che phủ bảo vệ căn cứ. Dự án xây dựng căn cứ hậu cần cơ bản (bằng nguồn vốn từ ngân sách của Nhà nước, từ chương trình mục tiêu quốc gia, ngân sách quốc phòng và của địa phương) được triển khai có kết quả. Tại căn cứ, đã tổ chức trồng các loại cây ăn quả, cây lấy gỗ có giá trị kinh tế cao; cải tạo hồ nuôi cá (được 6 ha), vừa phục vụ cho huấn luyện, diễn tập, vừa phục vụ tưới tiêu, chăn nuôi đại gia súc. Đặc biệt, tại đây đã tổ chức thành công chăn nuôi lợn theo phương pháp công nghiệp với quy mô lớn, bình quân hằng năm xuất chuồng trên mười ngàn đầu lợn, vừa chủ động bảo đảm thực phẩm ổn định, giá rẻ cho bộ đội, vừa cung cấp giống, chuyển giao công nghệ chăn nuôi, trồng trọt cho nhân dân trong khu vực, tạo nguồn thu đáng kể nộp ngân sách quốc phòng địa phương (năm 2007 nộp trên 800 triệu đồng). Với kết quả đạt được, mô hình xây dựng căn cứ hậu cần KVPT Bắc Giang được Quân khu 1 đánh giá cao và được phổ biến, nhân rộng trong các tỉnh trên địa bàn.  

Công tác xây dựng hậu cần nhân dân được quan tâm và đạt kết quả thiết thực. Tỉnh tiếp tục hỗ trợ về cơ chế, chính sách, duy trì hoạt động theo đúng pháp luật đối với các cơ sở cung ứng hậu cần truyền thống của các đơn vị quân đội. Sở Y tế đã chủ động phối hợp với các đơn vị tổ chức giao ban, tập huấn Ngành và chuẩn bị thống nhất các phương án, biện pháp phòng chống dịch bệnh cho nhân dân và ở các đơn vị quân đội. Hằng năm, quân y các đơn vị đã tham gia khám chữa bệnh cho hàng nghìn người dân, cấp thuốc miễn phí trị giá hàng trăm triệu đồng, tích cực tham gia hoạt động các chương trình, mục tiêu y tế, như: tiêm chủng mở rộng, phòng chống sốt rét-nội tiết, chăm sóc sức khoẻ sinh sản, phòng chống HIV/AISD và phong trào xây dựng "Chuẩn quốc gia về y tế xã"... Cơ quan hậu cần quân sự Tỉnh phối hợp với các ngành kinh tế địa phương bảo đảm tiêu chuẩn để huấn luyện các nội dung hậu cần cho lực lượng DQTV, dự bị động viên và đào tạo chỉ huy trưởng quân sự xã (phường, thị trấn), cũng như cho các đối tượng tập trung bồi dưỡng kiến thức QP-AN ở Tỉnh theo phân cấp.

Việc xây dựng lực lượng dự bị động viên hậu cần vững mạnh được Tỉnh thường xuyên chú trọng, cả về nhân lực và phương tiện kỹ thuật, từ khâu tạo nguồn, tổ chức, biên chế, quản lý, huấn luyện, diễn tập, kiểm tra, đến bảo đảm hậu cần, trang bị kỹ thuật, tài chính... Chất lượng lực lượng dự bị động viên hậu cần KVPT Bắc Giang từng bước được nâng lên, khả năng huy động cao, thể hiện rõ nét qua các cuộc tham gia diễn tập KVPT. Riêng về y tế, mỗi đơn vị trong Ngành đều tổ chức ít nhất 1 đội tự vệ chuyên ngành y tế, các đội phân thành 3 loại hình: cấp cứu cơ động, y tế dự phòng cơ động và cung ứng thuốc-vật tư cơ động, sẵn sàng phục vụ nhiệm vụ QS,QP khi có nhu cầu. Bên cạnh đó, Tỉnh luôn chăm lo đời sống vật chất, tinh thần cho lực lượng vũ trang, nhất là bộ đội chủ lực. Đến nay, 100% doanh trại của cơ quan quân sự (cấp tỉnh, cấp huyện) và các đơn vị đã được phê chuẩn quy hoạch và triển khai xây dựng theo thiết kế mẫu, được trang bị doanh cụ, dụng cụ sinh hoạt tương đối thống nhất, đồng bộ, phục vụ tốt cho công tác và sinh hoạt của bộ đội. Ngoài ra, Tỉnh còn cấp đất làm nhà (năm 2007 được 220 suất) cho cán bộ, quân nhân chuyên nghiệp, công nhân viên chức quốc phòng của cơ quan quân sự Tỉnh.

Kế thừa, phát huy kết quả, kinh nghiệm những năm qua, Bắc Giang tiếp tục  phấn đấu, không ngừng nâng cao chất lượng xây dựng hậu cần KVPT, sẵn sàng đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ QP-AN trong mọi tình huống.

Đại tá Chu Thanh Đại

Phó Chỉ huy trưởng về Quân sự,

BCHQS Tỉnh

 

Ý kiến bạn đọc (0)