QPTD -Thứ Sáu, 06/10/2023, 06:34 (GMT+7)
Bảo vệ Tổ quốc trên không gian mạng - nhiệm vụ chiến lược, cấp bách hiện nay

I. Không gian mạng - vùng “lãnh thổ đặc biệt” của Tổ quốc

II. Quan điểm của Đảng về bảo vệ Tổ quốc trên không gian mạng, kết quả bước đầu và vấn đề đặt ra

Nhận thức rõ tầm quan trọng của không gian mạng, những năm qua, Đảng, Nhà nước ta luôn quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo sát sao đối với việc xác lập, bảo vệ chủ quyền quốc gia trên không gian mạng bằng nhiều nghị quyết, chỉ thị về lĩnh vực này. Đặc biệt, ngày 25/7/2018, Bộ Chính trị (khóa XII) đã ban hành Nghị quyết số 29-NQ/TW về “Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trên không gian mạng”. Đây là Nghị quyết có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, thể hiện tư duy, tầm nhìn chiến lược của Đảng trong bảo vệ vùng “lãnh thổ đặc biệt” của quốc gia, góp phần tạo ra hệ thống hoàn chỉnh trong thực hiện nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới.

Quan điểm, đối tượng, nội dung, phương thức, lực lượng bảo vệ

Trên cơ sở đánh giá một cách khách quan, toàn diện về đặc điểm tình hình cùng những nguy cơ, thách thức và yêu cầu về bảo vệ Tổ quốc trên không gian mạng, Đảng ta xác định: phát huy sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc trong xây dựng tiềm lực, lực lượng, thế trận quốc phòng toàn dân kết hợp với thế trận an ninh nhân dân trên không gian mạng vững chắc, rộng khắp; xác lập, bảo vệ vững chắc chủ quyền quốc gia trên không gian mạng, góp phần bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc và lợi ích quốc gia - dân tộc; giữ vững môi trường hoà bình, ổn định để xây dựng và phát triển đất nước.

Để thực hiện mục tiêu trên, chúng ta cần nhất quán các quan điểm chỉ đạo của Đảng là: (1). Giữ vững sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng đối với sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc trên không gian mạng, đồng thời xác định là nhiệm vụ trọng yếu, thường xuyên của toàn Đảng, toàn quân, toàn dân và cả hệ thống chính trị. (2). Xác lập, quản lý và bảo vệ chủ quyền, lợi ích quốc gia - dân tộc trên không gian mạng theo lãnh thổ, trên cơ sở pháp luật Việt Nam và tuân thủ luật pháp quốc tế. (3). Tổ chức bảo vệ Tổ quốc trên không gian mạng trong thế trận quốc phòng toàn dân, thế trận an ninh nhân dân và thế trận chiến tranh nhân dân. Kết hợp chặt chẽ nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trên không gian mạng với nhiệm vụ xây dựng, phát triển không gian mạng an toàn, lành mạnh và rộng khắp tạo điều kiện thuận lợi để phát triển đất nước. (4). Độc lập, tự chủ, tự lực, tự cường, dựa vào sức mình chính là nhân tố quyết định; đồng thời chủ động, tích cực hội nhập quốc tế, tăng cường mở rộng hợp tác quốc tế trên không gian mạng.

Về đối tượng đấu tranh bao gồm các thế lực thù địch và tay sai có âm mưu, hành động sử dụng không gian mạng để can thiệp, hòng hạ thấp tiến tới xóa bỏ sự lãnh đạo của Đảng, lật đổ chế độ xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Đó còn là các thế lực nước ngoài có âm mưu, hành động sử dụng không gian mạng tiến hành các hình thái chiến tranh, thực hiện tham vọng xâm phạm chủ quyền, lợi ích quốc gia - dân tộc; các tổ chức phản động trong và ngoài nước, lực lượng cơ hội, suy thoái chính trị, đạo đức, lối sống có âm mưu, hành động cấu kết với thế lực bên ngoài, sử dụng không gian mạng chống phá sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; các tổ chức, cá nhân sử dụng không gian mạng thực hiện các hoạt động xâm nhập, phá hoại về kinh tế, chính trị, tư tưởng, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh, đối ngoại, xâm phạm lợi ích quốc gia - dân tộc, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân.

Nội dung bảo vệ Tổ quốc trên không gian mạng rất rộng lớn, bao gồm cả xây dựng không gian mạng an toàn, lành mạnh, rộng khắp và phòng ngừa, ngăn chặn, làm thất bại mọi sự vi phạm, chống phá. Đó là bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ; bảo vệ Đảng, Nhà nước, Nhân dân, chế độ xã hội, lợi ích quốc gia - dân tộc, nền văn hóa; giữ vững ổn định chính trị và môi trường không gian mạng an toàn, lành mạnh, rộng khắp góp phần xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

Phương thức bảo vệ là phi vũ trang, thông qua tuyên truyền, giáo dục, huấn luyện nâng cao ý thức, trách nhiệm, năng lực bảo vệ Tổ quốc trên không gian mạng; gia tăng sức mạnh tổng hợp, quốc phòng, an ninh, xây dựng không gian mạng an toàn, lành mạnh, rộng khắp; phát huy sức mạnh tổng hợp bảo vệ Tổ quốc trên không gian mạng. Đồng thời, phối kết hợp chặt chẽ giữa các chủ thể và lực lượng tham gia tích cực phòng ngừa, triệt tiêu các yếu tố dẫn đến nguy cơ đối với an toàn, an ninh, độc lập, chủ quyền, lợi ích quốc gia - dân tộc trên không gian mạng; nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn, rút kinh nghiệm hoạt động bảo vệ đối với không gian quan trọng này.

Lực lượng bảo vệ Tổ quốc trên không gian mạng là toàn Đảng, toàn dân, toàn quân và cả hệ thống chính trị. Trong đó, Đảng lãnh đạo; Nhà nước quản lý, điều hành; lực lượng vũ trang làm nòng cốt; lực lượng tác chiến trên không gian mạng, an ninh mạng và đấu tranh tư tưởng văn hóa là chuyên trách.

Thủ trưởng Bộ Tư lệnh 86 kiểm tra công tác bảo đảm Kỹ thuật Công nghệ thông tin tại Lữ đoàn 3

Kết quả từ những nỗ lực, cố gắng

Ngay sau khi Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trên không gian mạng được ban hành, cấp ủy, chính quyền các cấp đã tổ chức quán triệt sâu sắc, chủ động xây dựng kế hoạch, chương trình hành động và quyết liệt trong triển khai thực hiện. Theo đó, để Nghị quyết số 29-NQ/TW của Đảng thực sự đi vào cuộc sống, cùng với tăng cường giáo dục, quán triệt, tạo sự đoàn kết, thống nhất cả về nhận thức và hành động, các cấp ủy, tổ chức đảng đã chủ động ra nghị quyết lãnh đạo chuyên đề, tổ chức phân công cụ thể; trong đó, người đứng đầu cấp ủy, chính quyền các cấp chịu trách nhiệm và trực tiếp lãnh đạo, chỉ đạo rà soát, xác định rõ những vấn đề trọng tâm, trọng điểm để triển khai thực hiện; đồng thời, phát huy vai trò của các tổ chức, các lực lượng chung sức, đồng lòng tích cực tham gia bảo vệ Tổ quốc trên không gian mạng và đạt nhiều kết quả nổi bật.

Hệ thống tổ chức, bộ máy quản lý nhà nước đối với các loại hình dịch vụ viễn thông, Internet, bảo đảm an toàn cơ sở hạ tầng không gian mạng tiếp tục được xác lập và ngày càng được củng cố, từng bước nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động. Hệ thống văn bản quy phạm pháp luật thể chế hóa chủ trương, quan điểm của Đảng từng bước được bổ sung, hoàn thiện, như: Luật An ninh mạng 2018; Luật An toàn thông tin mạng (sửa đổi, bổ sung năm 2018); Luật Bảo vệ bí mật Nhà nước 2018; Chỉ thị số 14/CT-TTg, ngày 25/5/2018 của Thủ tướng Chính phủ về nâng cao năng lực phòng chống phần mềm độc hại; Chỉ thị số 02/CT-TTg, ngày 04/7/2018 của Thủ tướng Chính phủ về công tác bảo vệ bí mật nhà nước trên không gian mạng; Nghị quyết số 22/NQ-CP, ngày 18/10/2019 của Chính phủ về ban hành Chương trình hành động thực hiện Nghị quyết số 30-NQ/TW của Bộ Chính trị; cùng các kế hoạch, chương trình hành động thực hiện nghị quyết, chỉ thị của Chính phủ và cấp ủy, chính quyền các cấp, v.v. Đây là những văn bản quan trọng, tạo hành lang pháp lý cơ bản để các cấp, ngành, lực lượng, địa phương triển khai bảo vệ Tổ quốc trên không gian mạng.

Cùng với đó, cơ sở hạ tầng không gian mạng cũng được đầu tư xây dựng, phát triển mạnh, phục vụ đắc lực cho hoạt động lãnh đạo, quản lý, điều hành của Đảng, Nhà nước, đáp ứng nhu cầu của người dân, doanh nghiệp, góp phần phát triển kinh tế, xã hội, đảm bảo quốc phòng, an ninh. Cơ sở vật chất, trang thiết bị kỹ thuật bảo đảm an toàn, an ninh mạng ngày càng được đầu tư, củng cố. Chúng ta đã xây dựng được kết cấu hạ tầng viễn thông khá đồng bộ, công nghệ thông tin được ứng dụng rộng rãi từ Trung ương đến địa phương; xây dựng và duy trì một hệ thống mạng quốc gia an toàn và bảo mật, ngăn chặn được hiểm họa từ các cuộc tấn công, đánh cắp thông tin và tạo ra một môi trường trực tuyến khá an toàn. Hệ thống Cơ sở dữ liệu quốc gia được triển khai xây dựng, bước đầu phục vụ tốt cho phát triển Chính phủ điện tử, hướng tới Chính phủ số, kinh tế số, xã hội số, cải cách thủ tục hành chính, nâng cao hiệu quả quản trị quốc gia. Đặc biệt, hệ thống Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư - “trái tim” của chính phủ số đã được vận hành, tạo động lực để phát triển kinh tế số, xã hội số, công dân số. Chúng ta cũng đã xây dựng được mối quan hệ hợp tác với các quốc gia và tổ chức quốc tế để chia sẻ thông tin, kinh nghiệm và tối ưu hóa các biện pháp bảo vệ không gian mạng; tham gia vào các cơ chế hợp tác quốc tế để đối phó với các mối đe dọa trực tuyến.

Cùng với phát huy sức mạnh của toàn dân, lực lượng chuyên trách cũng được quan tâm xây dựng, tiến thẳng lên hiện đại, như: Bộ Tư lệnh tác chiến không gian mạng (thuộc Bộ Quốc phòng); Cục An ninh mạng và phòng, chống tội phạm sử dụng công nghệ cao (thuộc Bộ Công an); Cục An toàn thông tin (thuộc Bộ Thông tin và Truyền thông); Ban chỉ đạo 35, Lực lượng 47 các cấp, v.v. Thời gian qua, các lực lượng chuyên trách đã thực hiện tốt chức năng tham mưu, chủ động phối hợp, dự báo đúng tình hình; kịp thời phát hiện, đấu tranh có hiệu quả với các hoạt động cài cắm gián điệp, tấn công mạng, triển khai các giải pháp bảo vệ hệ thống thông tin trọng yếu quốc gia; vô hiệu hóa các hoạt động chống phá trên không gian mạng; xử lý nghiêm các đối tượng có hành vi vi phạm pháp luật về quản lý, cung cấp, sử dụng mạng Internet và thông tin trên mạng, v.v. Lực lượng tác chiến không gian mạng tiếp tục được điều chỉnh, bố trí ngày càng khoa học, phù hợp với phương án, quyết tâm, chiến lược bảo vệ Tổ quốc, đủ khả năng thực hiện các nhiệm vụ trinh sát, phòng thủ, phản công mạng trên các hướng chiến lược.

Có thể khẳng định, với những chủ trương đúng đắn, hành động quyết liệt, chúng ta đã “chủ động phát hiện, có các phương án, đối sách ngăn ngừa các nguy cơ chiến tranh, xung đột từ sớm, từ xa và kiểm soát tốt các nhân tố có thể gây bất lợi đột biến,... Bước đầu hình thành hệ thống pháp luật và cơ sở vật chất cho việc bảo đảm an ninh mạng, an toàn thông tin quốc gia, không gian mạng quốc gia,… Chủ động đấu tranh kịp thời, hiệu quả, từng bước đẩy lùi các loại tội phạm;… làm thất bại âm mưu và hoạt động “diễn biến hòa bình”, bạo loạn lật đổ của các thế lực thù địch, phản động”1. “Việc bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch, nhất là trên không gian mạng xã hội được tập trung lãnh đạo, chỉ đạo, đạt kết quả rõ rệt”2. “Từng bước hoàn thiện và phát triển tư duy lý luận, chủ trương, đường lối của Đảng về xây dựng và tổ chức thực hiện Chiến lược bảo vệ Tổ quốc theo hướng: Tăng cường thế trận lòng dân; chủ động, kịp thời phát hiện, ngăn chặn, đẩy lùi nguy cơ chiến tranh, xung đột, bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa;... Tiếp tục củng cố, tăng cường quốc phòng, an ninh; giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để phát triển đất nước, v.v. Chủ động, tích cực đấu tranh phản bác các luận điểm sai trái, xuyên tạc của các thế lực thù địch, phản động”3, bảo vệ vững chắc Tổ quốc trên không gian mạng. Theo đánh giá liên tục trong 3 kỳ gần đây của Liên minh Viễn thông quốc tế, chỉ số an toàn, an ninh mạng toàn cầu - GCI của Việt Nam đã tăng từ 100 lên 50 và hiện xếp thứ 25/194 quốc gia và vùng lãnh thổ; hệ sinh thái sản phẩm an toàn, an ninh mạng Việt Nam cũng đã được thúc đẩy phát triển4.

Hạn chế, bất cập

Trước hết, dễ nhận thấy nhận thức của một bộ phận cán bộ, đảng viên và nhân dân về nhiệm vụ này còn chưa sâu, kỹ dẫn tới chủ quan, mất cảnh giác, chưa đề cao trách nhiệm trong bảo vệ chủ quyền quốc gia trên không gian mạng. Hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về bảo đảm an toàn, an ninh mạng quốc gia tuy đã được xây dựng, bổ sung, song còn chưa đồng bộ, có văn bản hiệu lực thi hành chưa cao. Công tác quản lý nhà nước về an toàn, an ninh mạng có lúc, có nơi còn sơ hở, chưa theo kịp tốc độ phát triển và ứng dụng công nghệ thông tin, nhất là đối với mạng xã hội, trò chơi trực tuyến, thuê bao di động trả trước, hoạt động cung cấp dịch vụ viễn thông, Internet. Lực lượng chuyên trách đã được thành lập từ Trung ương đến cơ sở, song chất lượng, hiệu quả hoạt động còn chưa đồng đều. Đấu tranh trên không gian mạng có lúc hiệu quả chưa cao; việc đáp trả, phản bác thông tin xấu, độc, luận điệu xuyên tạc, phản động có lúc chưa kịp thời.

Cơ sở hạ tầng không gian mạng tuy đã được quan tâm xây dựng, song vẫn chưa tương xứng với tốc độ phát triển và yêu cầu nhiệm vụ. Mặc dù Việt Nam là quốc gia có tốc độ phát triển Internet nhanh trong khu vực và thế giới, nhưng còn tồn tại không ít hạn chế về an ninh, an toàn mạng. Theo tổ chức an ninh mạng Kaspersky và Symantec, Việt Nam là một trong những quốc gia đứng đầu thế giới về nguy cơ bị nhiễm mã độc, phần mềm độc hại (qua USB, thẻ nhớ) với gần 70% người dùng máy tính có nguy cơ bị lây nhiễm cao; đứng thứ ba về số lượng người dùng di động bị mã độc tấn công nhiều nhất thế giới; đứng thứ 4 trên thế giới về nguy cơ bị nhiễm mã độc khi sử dụng Internet. Hệ quả là năm 2020 có tới hơn 73% số vụ lộ, lọt bí mật nhà nước xảy ra trên không gian mạng5

Tình trạng mất an toàn, an ninh thông tin mạng, tội phạm mạng còn diễn biến phức tạp. Theo thống kê, năm 2020, Bộ Công an đã phát hiện hơn 3.000 trang mạng có nội dung xấu, trong đó có 31 trang mạng, blog, 55 kênh Youtube, 49 trang fanpage, 765 tài khoản facebook, 149 hội nhóm chống đối cực đoan, đăng tải hơn 800.000 bài viết, video, clip có nội dung xấu, độc hại6. Các hành vi phá hoại cơ sở hạ tầng thông tin; gây mất an toàn, ảnh hưởng đến hoạt động bình thường, vững mạnh của mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử của các cơ quan, tổ chức, cá nhân và hệ thống thông tin vô tuyến điện,… đã và đang gây ra những thiệt hại lớn về kinh tế, xâm hại trực tiếp đến quyền, lợi ích hợp pháp của các cá nhân, tổ chức. Theo kết quả đánh giá an ninh mạng do Tập đoàn công nghệ Bkav thực hiện, trong năm 2019, chỉ tính riêng thiệt hại do virus máy tính gây ra đối với người dùng Việt Nam đã lên tới 20.892 tỉ đồng (tương đương 902 triệu USD), hơn 1,8 triệu máy tính bị mất dữ liệu do sự lây lan của các loại mã độc mã hóa dữ liệu tống tiền (ransomware), trong đó có nhiều máy chủ chứa dữ liệu của các cơ quan, gây đình trệ hoạt động của không ít cơ quan, doanh nghiệp.

Đánh giá về thực hiện nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc, trong đó có bảo vệ Tổ quốc trên không gian mạng, Văn kiện Đại hội XIII của Đảng chỉ rõ: “Việc quán triệt, tổ chức, triển khai thực hiện các nghị quyết của Đảng, pháp luật của Nhà nước về quốc phòng, an ninh, bảo vệ Tổ quốc có lúc, có nơi chưa nghiêm, hiệu quả chưa cao. Công tác nắm tình hình, dự báo chiến lược về quốc phòng, an ninh có lúc chưa thật chủ động; tội phạm và tệ nạn xã hội còn diễn biến phức tạp; an ninh một số địa bàn, lĩnh vực chưa thật sự vững chắc, nhất là an ninh mạng,… Công tác quản lý, bảo đảm an toàn thông tin, an ninh mạng còn hạn chế”7. “Công tác đấu tranh phản bác, ngăn chặn các thông tin xấu độc, quan điểm sai trái, thù địch có lúc, có nơi còn bị động, thiếu sắc bén, tính chiến đấu chưa cao; công tác nắm bắt dư luận trước những sự kiện, tình huống bất ngờ chưa kịp thời”8.

Hội nghị giữa nhiệm kỳ Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII nhận định: “Bên cạnh những ưu điểm, kết quả đã đạt được,… vẫn còn một số hạn chế, tồn tại, như: Lãnh đạo, chỉ đạo công tác nắm tình hình; nghiên cứu chiến lược, nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn có mặt, có lúc chưa đáp ứng được yêu cầu của thực tiễn. Công tác đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch trên không gian mạng có lúc, có nơi chưa kịp thời, chưa mạnh mẽ và hiệu quả chưa cao”10. Những hạn chế trên có nhiều nguyên nhân, trong đó có cả nguyên nhân khách quan và chủ quan, tuy nhiên, nguyên nhân chủ quan vẫn là chính.

Một số vấn đề đặt ra

Từ thực tiễn bảo vệ Tổ quốc trên không gian mạng trong thời gian qua đặt ra cho chúng ta những vấn đề mới cần tiếp tục được quan tâm và giải quyết thấu đáo, nhằm thực hiện tốt hơn nữa nhiệm vụ quan trọng này.

Trước hết, việc bảo vệ Tổ quốc trên không gian mạng thực chất là cuộc đấu tranh giai cấp, đấu tranh dân tộc lâu dài, cam go, phức tạp, lấy con người và trí tuệ của con người làm chính trên cơ sở pháp luật Việt Nam và luật pháp quốc tế. Nhiệm vụ này đòi hỏi phải có chiến lược, sách lược đúng đắn; hệ thống văn bản quy phạm pháp luật đầy đủ; lực lượng chuyên trách tinh thông nghiệp vụ, nhạy bén về chính trị, hiểu biết pháp luật; đặc biệt, phải huy động được sự tham gia đông đảo của mọi tầng lớp nhân dân. Tuy nhiên, trên thực tế, nhận thức, trách nhiệm và kỹ năng bảo vệ của một bộ phận cán bộ, đảng viên và nhân dân còn hạn chế. Điều đó đặt ra cho thời gian tới, cùng với tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, quản lý, điều hành của Nhà nước, sự vào cuộc chủ động, quyết liệt, hiệu quả các cấp, các ngành để huy động tốt mọi nguồn lực, chúng ta cần nâng cao hơn nữa nhận thức, trách nhiệm, kỹ năng cho cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân trong thực hiện nhiệm vụ quan trọng này. Vấn đề này cần phải được tiến hành thường xuyên, với nội dung, biện pháp phù hợp, hiệu quả.

Hai là, cùng với sự phát triển của không gian mạng, đẩy mạnh chuyển đổi số quốc gia, thì nguy cơ tấn công mạng, gián điệp mạng, chiến tranh mạng, mất an toàn thông tin mạng cũng ngày càng gia tăng. Bởi vì, đi cùng với phát triển chính phủ điện tử là việc sử dụng Internet và hệ thống máy tính kết nối, điện thoại thông minh sẽ ngày càng rộng rãi; mọi hoạt động của xã hội di chuyển ngày càng nhiều lên không gian mạng. Đây là cơ hội để phát triển, nhưng cũng tạo nhiều kẽ hở để các thế lực thù địch, phản động, tội phạm tăng cường chống phá, xâm hại đến quyền và lợi ích của cá nhân, tổ chức trên không gian mạng. Theo thống kê, hiện nay, các tổ chức phản động đã và đang sử dụng khoảng 1.236 trang Web, trên 200 kênh youtube, hơn 2.000 fanpage, lập ra gần 1.000 hội nhóm trên mạng xã hội để tuyên truyền phá hoại tư tưởng, kích động các hoạt động chống phá Đảng, Nhà nước10. Đáng chú ý, một số quốc gia vẫn đang bí mật triển khai các hoạt động trinh sát, giám sát, tình báo, bố trí hệ thống vũ khí mạng, sẵn sàng tiến công, xâm phạm chủ quyền của Việt Nam trên không gian mạng11; các thế lực thù địch, phản động cũng đang đẩy mạnh các hoạt động xâm phạm an ninh quốc gia, tuyên truyền chống phá chế độ, kích động biểu tình, bạo loạn, hòng thực hiện “cách mạng màu”, “cách mạng đường phố” đối với nước ta12. Các hoạt động cài cắm mã độc, phần mềm độc hại vào hệ thống thông tin quan trọng quốc gia, quân sự, quốc phòng diễn ra ngày càng thường xuyên và tinh vi hơn. Tình hình đó đặt ra cho chúng ta phải giải quyết thấu đáo mối quan hệ giữa phát triển, khai thác với bảo vệ vững chắc Tổ quốc trên không gian mạng.

Ba là, bảo vệ Tổ quốc trên không gian mạng là nhiệm vụ mới, rất phức tạp, đòi hỏi phải có hệ thống cơ sở pháp lý đồng bộ, lực lượng chuyên sâu, vũ khí, trang bị kỹ thuật hiện đại, trong khi hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về vấn đề này của ta còn thiếu và chưa đồng bộ. Các quy định về việc xử lý hành vi vi phạm pháp luật về an ninh thông tin mạng còn phân tán, có hành vi chưa có quy định rõ ràng, do đó lực lượng chức năng thiếu căn cứ để kiểm tra, xử lý một cách triệt để. Cùng với đó, lực lượng chuyên trách của ta tuy đã được thành lập và bước đầu hoạt động có hiệu quả nhưng kinh nghiệm tác chiến, đấu tranh trên không gian mạng còn chưa nhiều; trang bị kỹ thuật còn hạn chế, chưa đồng bộ; nguồn nhân lực chất lượng cao về lĩnh vực công nghệ thông tin, an ninh mạng còn thiếu, v.v. Đó cũng là những vấn đề cấp thiết đặt ra trong thời gian tới.

Bốn là, hạ tầng không gian mạng của ta hiện nay còn hạn chế, nhất là hạ tầng công nghệ phần cứng, từ các hạ tầng lõi cho đến các thiết bị điện tử cá nhân cơ bản đều nhập từ nước ngoài; nhiều trang thiết bị mạng được sử dụng trong các cơ quan nhà nước, doanh nghiệp cũng có nguồn gốc từ nước ngoài. Các hãng bảo mật và cơ quan chức năng nhiều nước, trong đó có Việt Nam đã chứng minh và cảnh báo về các mã độc, “cửa hậu” được cài sẵn trong các thiết bị trước khi xuất xưởng, cho phép đối phương có thể truy cập, kiểm soát từ xa. Bên cạnh đó, các trang mạng xã hội được người Việt Nam dùng nhiều cũng chủ yếu do nước ngoài quản lý và đặt máy chủ ở nước ngoài; trong khi, chúng ta còn thiếu nguồn nhân lực công nghệ thông tin chất lượng cao, nhất là những chuyên gia giỏi về an ninh mạng, tác chiến mạng. Đây cũng là một trong những vấn đề hết sức khó khăn trong đảm bảo an ninh, an toàn cho tổ chức, cá nhân tham gia các hoạt động trên không gian mạng.

Không gian mạng ở Việt Nam là một bộ phận cấu thành Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Bảo vệ Tổ quốc trên không gian mạng là nhiệm vụ trọng yếu, thường xuyên của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân và cả hệ thống chính trị. Từ thực tiễn, kinh nghiệm, kết quả đạt được và những vấn đề đặt ra trong thời gian qua đòi hỏi chúng ta tiếp tục nâng cao nhận thức, xây dựng quyết tâm và có nhiều giải pháp đồng bộ, hiệu quả, nhằm phát huy sức mạnh tổng hợp, bảo vệ vững chắc “vùng lãnh thổ đặc biệt” của Tổ quốc.

Số sau - Tiếp theo và hết: III. Những giải pháp cơ bản bảo vệ vững chắc Tổ quốc trên không gian mạng.

CAO THÀNH - PHẠM CƯỜNG
____________________

1 - ĐCSVN - Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Tập I, Nxb. CTQGST, H.2021, tr.68-69.

2 - Sđd, Tập II, tr.171.

3 - Phát biểu của đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng tổng kết Hội nghị giữa nhiệm kỳ Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII – Báo Quân đội nhân dân, số 22304, ngày 18/5/2023, tr.1-2.

4 - Hùng Quân - 3 yếu tố then chốt trong đảm bảo an ninh mạng, Báo Công an nhân dân điện tử, ngày 22/6/2023.

5 -Thiếu tướng, PGS, TS. Cao Anh Dũng, Giám đốc Học viện Quốc tế, Bộ Công an -Bảo vệ an ninh quốc gia trên không gian mạng trong bối cảnh cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư theo định hướng Đại hội XIII của Đảng, Tạp chí Cộng sản điện tử, ngày14/01/2022.

6 - Sđd.

7 - ĐCSVN - Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Tập I, Nxb.CTQGST, H.2021, tr.87-88.

8 - Sđd, tr.91.

9 - Phát biểu của đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng tổng kết Hội nghị giữa nhiệm kỳ Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII – Báo Quân đội nhân dân, số 22304, ngày 18/5/2023, tr.1-2.

10 - Đại tá Đoàn Thanh Thủy, Phó Cục trưởng, Cục A02, Bộ Công an – Hoạt động chống phá của các thế lực thù địch, phản động trên môi trường mạng xã hội ở Việt Nam trong thời gian qua và dự báo trong thời gian tới- Kỷ yếu Hội thảo Đấu tranh bảo vệ nền tảng tư tưởng, bảo vệ Đảng, Nhà nước, Nhân dân và chế độ XHCN trên môi trường mạng xã hội – thực trạng và giải pháp, Hà Nội, ngày 31/8/2023, Quyển 1, tr.52.

11 - Bộ Chính trị (khóa XII) - Nghị quyết số 29-NQ/TWvề Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trên không gian mạng, Hà Nội, ngày 25/7/2018.

12 - Sđd.

Ý kiến bạn đọc (0)

Chiến thắng 30 tháng Tư - ý nghĩa to lớn, giá trị vững bền
Trong lịch sử dựng nước và giữ nước trước đây, cũng như trong lịch sử cận đại của dân tộc, có những sự kiện lịch sử diễn ra như một tất yếu, càng thêm thời gian càng thấy rõ hơn và nhận thức sâu sắc hơn về ý nghĩa trọng đại, giá trị vững bền của sự kiện đó. Chiến thắng 30 tháng Tư năm 1975 là sự kiện chính trị đặc biệt như thế.