QPTD -Thứ Ba, 14/03/2023, 09:20 (GMT+7)
Đẩy mạnh hợp tác quốc tế và đối ngoại quốc phòng - kế sách bảo vệ Tổ quốc “từ sớm, từ xa”

(Tiếp theo và hết)

II. NÂNG CAO HIỆU QUẢ HỢP TÁC QUỐC TẾ, ĐỐI NGOẠI QUỐC PHÒNG, TĂNG CƯỜNG SỨC MẠNH BẢO VỆ TỔ QUỐC “TỪ SỚM, TỪ XA” (Xem phần I tại đây)

Trên cơ sở nhận thức đầy đủ về vị trí, vai trò quan trọng của hợp tác quốc tế và đối ngoại về quốc phòng đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, đặc biệt là vấn đề hợp tác, tranh thủ, tận dụng tối đa các nguồn lực từ bên ngoài để củng cố, tăng cường tiềm lực quốc phòng của đất nước, xây dựng Quân đội tinh, gọn, mạnh, tiến lên hiện đại, Đảng, Nhà nước, Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng đã thường xuyên quan tâm, có nhiều chủ trương, giải pháp đối với lĩnh vực hợp tác quan trọng này, với lộ trình và bước đi phù hợp. Tuy nhiên, trong bối cảnh hiện nay, tình hình an ninh, chính trị thế giới nói chung, vấn đề Biển Đông nói riêng tiếp tục diễn biến phức tạp, tiềm ẩn nhiều nguy cơ bất ổn; cạnh tranh chiến lược và việc tập hợp lực lượng giữa các nước lớn tiếp tục diễn ra gay gắt. Xung đột cục bộ, tranh chấp chủ quyền, lãnh thổ có chiều hướng gia tăng, tác động tiêu cực tới sự liên kết giữa các nước, khu vực và các chuỗi cung ứng toàn cầu. Công cuộc đấu tranh bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc sẽ tiếp tục đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức; các vấn đề về an ninh truyền thống và phi truyền thống ngày càng tác động sâu sắc đến nhiều nước, trong đó có Việt Nam trên tất cả các lĩnh vực, đòi hỏi chúng ta phải tăng cường hợp tác với các quốc gia để cùng giải quyết, điều đó đặt ra cho công tác đối ngoại nói chung, đối ngoại quốc phòng nói riêng những yêu cầu mới cao hơn, nặng nề hơn.

Để thực hiện có hiệu quả nội dung này, các cấp, ngành, lực lượng, địa phương, nòng cốt là Quân đội nhân dân cần tiếp tục quán triệt sâu sắc và triển khai thực hiện có hiệu quả chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về hội nhập quốc tế và đối ngoại quốc phòng, trọng tâm là Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng; Nghị quyết số 22-NQ/TW, ngày 10/4/2013 của Bộ Chính trị (khóa XI) về hội nhập quốc tế; Nghị định số 22/2016/NĐ-CP, ngày 31/3/2016 của Chính phủ quy định về đối ngoại quốc phòng; Nghị quyết Đại hội Đảng bộ Quân đội lần thứ XI; Nghị quyết số 806- NQ/QUTW, ngày 31/12/2013 của Quân ủy Trung ương về hợp tác quốc tế và đối ngoại quốc phòng đến năm 2020 và những năm tiếp theo, v.v. Trên cơ sở đó, kịp thời tham mưu với Đảng, Nhà nước về hoạt động đối ngoại quốc phòng theo tinh thần: “tích cực, chủ động, chắc chắn, linh hoạt, hiệu quả”; kiên định chính sách quốc phòng “bốn không” nhằm mục đích “hòa bình, tự vệ”, bảo vệ Tổ quốc “từ sớm, từ xa”. Trong đó, ưu tiên quan hệ, hợp tác với các nước láng giềng, các nước lớn, các nước ASEAN và các nước bạn bè truyền thống cũng như các tổ chức và định chế quốc tế; đồng thời, đề xuất các nội dung hợp tác trong khắc phục hậu quả bom mìn và xử lý ô nhiễm dioxin, đẩy mạnh các hoạt động xúc tiến thương mại, liên danh, liên kết trong sản xuất vũ khí, trang thiết bị quân sự, thúc đẩy các nước viện trợ các trang thiết bị quân sự và tăng cường hợp tác công nghiệp quốc phòng với Việt Nam. Trong quá trình thực hiện, phải luôn kiên định về nguyên tắc, linh hoạt, mềm dẻo về sách lược, giữ vững độc lập, tự chủ trong quan hệ hợp tác, sáng tạo trong triển khai thực hiện; tích cực, chủ động, nắm chắc diễn biến tình hình của thế giới, khu vực có liên quan đến độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc để tham mưu chiến lược với Đảng, Nhà nước xử lý có hiệu quả các tình huống cũng như triển khai hoạt động đối ngoại quốc phòng, đảm bảo cao nhất lợi ích quốc gia - dân tộc. Đồng thời, tạo lập thế trận giữa quốc phòng, an ninh với đối ngoại vững chắc đặt dưới sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng và sự quản lý thống nhất của Nhà nước. Nâng cao hiệu quả phối hợp giữa Bộ Quốc phòng với các ban, bộ, ngành Trung ương và địa phương, giữa các cơ quan, đơn vị của Bộ Quốc phòng trong triển khai công tác hợp tác quốc tế và đối ngoại quốc phòng.

Chủ động nghiên cứu, dự báo, nắm chắc diễn biến tình hình thế giới, khu vực và tham gia có hiệu quả các cơ chế, khuôn khổ hợp tác. Đây là giải pháp quan trọng để xây dựng chiến lược, đối sách cũng như phương thức xử lý các vấn đề liên quan đến hợp tác, đối ngoại quốc phòng của Việt Nam. Theo đó, các cấp, ngành, địa phương, nòng cốt là Quân đội cần nghiên cứu, nắm chắc diễn biến tình hình khu vực, thế giới, những yếu tố tác động đến hoạt động đối ngoại của Việt Nam nói chung, đối ngoại quốc phòng nói riêng, nhất là cạnh tranh chiến lược, tập hợp lực lượng của các nước lớn, tình hình Biển Đông, tuyến biên giới và vùng biển Tây Nam, các thách thức an ninh phi truyền thống,... từ đó tăng cường trao đổi, chia sẻ thông tin, phối hợp chặt chẽ, kịp thời tham mưu, đề xuất với Đảng, Nhà nước có đối sách xử lý các tình huống, cũng như chiến lược, chính sách đối ngoại của Đảng. Quân đội tiếp tục nâng tầm đối ngoại quốc phòng đa phương theo tinh thần Chỉ thị số 25-CT/TW, ngày 08/8/2018 của Ban Bí thư Trung ương Đảng; đẩy mạnh tham gia hoạt động gìn giữ hòa bình Liên hợp quốc theo Nghị quyết số 130/2020/QH14, ngày 13/11/2020 của Quốc hội; nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác hợp tác quốc tế và đối ngoại quốc phòng theo hướng ngày càng đi vào chiều sâu, thực chất và hiệu quả. Đồng thời, làm sâu sắc hơn nữa quan hệ quốc phòng song phương, nhất là với các nước láng giềng, các nước lớn, các đối tác quan trọng và bạn bè truyền thống; gia tăng tin cậy chính trị, mức độ đan xen lợi ích; xử lý hài hòa quan hệ với các nước lớn, phù hợp với tình hình thực tiễn đặt ra. Triển khai hợp tác quốc tế và đối ngoại quốc phòng đồng bộ trên các lĩnh vực, các cấp độ; tham gia đầy đủ, có hiệu quả các cơ chế, khuôn khổ, cấu trúc, diễn đàn an ninh khu vực và quốc tế, nhất là cơ chế hợp tác quốc phòng trong khuôn khổ ASEAN; chủ động đề xuất sáng kiến, thể hiện vai trò dẫn dắt ở một số lĩnh vực ta có thế mạnh; mở rộng lĩnh vực, quy mô và địa bàn tham gia lực lượng gìn giữ hòa bình Liên hợp quốc; tiếp tục đăng cai, tham gia Hội thao Quân sự Army Games; đảm nhiệm tốt vai trò chủ trì các hoạt động trong ASEAN, sẵn sàng đảm nhiệm vai trò đồng chủ trì một Nhóm chuyên gia ADMM+ phù hợp trong chu kỳ 2024 - 2026; tiếp tục đăng cai tổ chức các cuộc triển lãm quốc phòng quốc tế tại Việt Nam.

Phát huy thành quả về hợp tác quốc phòng đã đạt được để nâng tầm tư duy, hành động, linh hoạt, sáng tạo, chắc chắn, hiệu quả trong hợp tác về quốc phòng với các đối tác. Quân đội phải tiếp tục đổi mới cả về nội dung và hình thức trong hợp tác quốc tế, đối ngoại quốc phòng; chú trọng phát huy vai trò của đối ngoại quốc phòng trong việc tạo lập và giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để huy động các nguồn lực bên ngoài xây dựng, phát triển đất nước, nâng cao vị thế và uy tín của Việt Nam nói chung, Quân đội nói riêng trên trường quốc tế, thiết thực góp phần xây dựng Quân đội tinh, gọn, mạnh, tiến lên hiện đại, đóng góp tích cực vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Bên cạnh đó, triển khai thực hiện có hiệu quả các thỏa thuận hợp tác đã ký với các nước trên tinh thần bình đẳng, cùng có lợi, tôn trọng lẫn nhau và phù hợp với luật pháp quốc tế, mở rộng quan hệ, hợp tác với các nước có tiềm năng; tăng cường hợp tác với các nước láng giềng trong quản lý, bảo vệ biên giới; thúc đẩy quan hệ gắn bó với các nước ASEAN; xử lý hài hòa quan hệ với các nước lớn, làm sâu sắc hơn nữa các mối quan hệ đối tác chiến lược, đối tác toàn diện; tranh thủ sự giúp đỡ, hỗ trợ của các nước, nhất là các nước lớn, các nước phát triển để xây dựng, phát triển Quân đội; duy trì quan hệ với các nước bạn bè truyền thống. Đẩy mạnh công tác đối ngoại biên giới, nâng cao hiệu quả các cơ chế, hình thức giao lưu các cấp, hợp tác giữa các lực lượng bảo vệ biên giới, đảm bảo đường biên giới hòa bình, ổn định, hợp tác, hữu nghị và phát triển. Trong hợp tác về quốc phòng với các quốc gia, tổ chức khu vực và quốc tế, cần coi hợp tác về huấn luyện, đào tạo, trao đổi kinh nghiệm quân sự và học thuật; trong đó, chủ trương mở rộng hợp tác về đào tạo sĩ quan, nhân viên kỹ thuật có trình độ chuyên môn cao, tập trung vào lĩnh vực ngoại ngữ, quân y, khoa học kỹ thuật quân sự,... thông qua việc cử cán bộ đi đào tạo ở nước ngoài, tham dự các cuộc hội nghị, hội thảo quốc tế về quốc phòng, an ninh, trao đổi về các vấn đề an ninh khu vực và thế giới mà các bên quan tâm hay nâng cao chất lượng hợp tác, nghiên cứu các vấn đề mới trong khoa học và nghệ thuật quân sự, v.v. Tiếp tục xây dựng, hoàn thiện thể chế, hành lang pháp lý về hợp tác quốc tế và đối ngoại quốc phòng; rà soát và triển khai hiệu quả văn bản ký với các đối tác; xây dựng chiến lược hợp tác quốc tế và đối ngoại quốc phòng đến năm 2030 và những năm tiếp theo.

Để thực hiện được mục tiêu xây dựng Quân đội hiện đại vào năm 2030 theo định hướng của Đảng, thời gian tới cần đẩy mạnh hợp tác quốc tế về công nghiệp quốc phòng, trang bị các loại vũ khí, phương tiện kỹ thuật hiện đại, đáp ứng yêu cầu bảo vệ Tổ quốc. Bên cạnh việc tiếp tục mua sắm vũ khí, trang thiết bị quân sự từ các nước bạn hàng truyền thống, Việt Nam cũng phải thực hiện nghiêm các cam kết quốc tế về kiểm soát vũ khí, trang bị, ưu tiên hợp tác với các nước trên các lĩnh vực nghiên cứu, chuyển giao công nghệ sản xuất, sửa chữa trang thiết bị quân sự và vũ khí, trang bị cũng như trong đào tạo nhân lực chất lượng cao cho nền công nghiệp quốc phòng, v.v. Cùng với đó, chú trọng mở rộng, thúc đẩy quan hệ hợp tác công nghiệp quốc phòng với các đối tác có tiềm năng, thế mạnh về lĩnh vực này. Đồng thời, đẩy mạnh các hoạt động xúc tiến thương mại, liên doanh liên kết, sản xuất hàng kinh tế phục vụ trong nước và xuất khẩu; xúc tiến, hiện thực hóa khả năng xuất khẩu vũ khí, trang bị kỹ thuật quân sự do các nhà máy công nghiệp quốc phòng sản xuất. Nghiên cứu, xây dựng cơ chế quản lý, kiểm tra, giám sát có hiệu quả việc đấu thầu mua sắm vũ khí, trang bị nhằm hạn chế tối đa các vấn đề tiêu cực có thể xảy ra. Tập trung nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế về lĩnh vực công nghiệp quốc phòng của các quân chủng, binh chủng, lực lượng, chú trọng nâng cao trình độ chuyên môn và khả năng phối hợp hoạt động trên lĩnh vực công nghiệp với quân đội các nước trong khu vực và quốc tế, phục vụ mục tiêu xây dựng Quân đội hiện đại. Nghiên cứu mở rộng một số chuyên ngành đào tạo, nhất là công nghiệp chế tạo vũ khí công nghệ cao, qua đó có thể tiếp nhận các học viên quân sự nước ngoài, tạo sự đối đẳng trong quan hệ và từng bước nâng cao năng lực hợp tác quốc tế về đào tạo của các học viện, nhà trường quân đội.

Tiếp tục đẩy mạnh công tác tuyên truyền về hợp tác quốc tế và đối ngoại quốc phòng với nội dung, hình thức phong phú, đa dạng, linh hoạt; tập trung vào hoạt động đối ngoại của các cấp lãnh đạo, các sáng kiến, đóng góp của Việt Nam tại các hội nghị, diễn đàn quân sự, quốc phòng đa phương khu vực và quốc tế, kết quả hợp tác khắc phục hậu quả chiến tranh, hỗ trợ nhân đạo, cứu trợ thảm họa, đối ngoại biên giới, bảo vệ chủ quyền biển, đảo, tham gia hoạt động gìn giữ hòa bình Liên hợp quốc, v.v. Để thực hiện tốt giải pháp này, phải thường xuyên kiện toàn các ban chỉ đạo, tổ nhóm và đội ngũ chuyên gia giúp việc trong xây dựng các đề án, chương trình cả tầm vĩ mô và vi mô. Định kỳ hoặc đột xuất sơ kết, tổng kết, đánh giá, rút kinh nghiệm, qua đó khắc phục hạn chế, khuyết điểm, giúp công tác hợp tác quốc tế và đối ngoại quốc phòng hoạt động ngày càng hiệu quả, thực chất, đồng bộ. Các cơ quan, đơn vị trong toàn quân cần thường xuyên giáo dục, quán triệt cho cán bộ, chiến sĩ và những người làm công tác đối ngoại thấy được hợp tác, đối ngoại quốc phòng là trụ cột quan trọng trong Chiến lược bảo vệ Tổ quốc, là một trong những kế sách bảo vệ Tồ quốc “từ sớm, từ xa” bằng biện pháp hòa bình, từ đó nâng cao nhận thức, ý thức, trách nhiệm trong việc thực hiện nhiệm vụ. Đồng thời, coi đó là nhiệm vụ quan trọng, thường xuyên của Quân đội trong thời bình, gắn chặt với nhiệm vụ huấn luyện, sẵn sàng chiến đấu, sản xuất và công tác của mỗi cơ quan, đơn vị.

Với vai trò ngày càng quan trọng của hợp tác quốc tế và đối ngoại quốc phòng, chúng ta tin tưởng rằng, Quân đội nhân dân Việt Nam sẽ hoàn thành tốt trọng trách của đội quân chiến đấu, đội quân công tác, đội quân lao động sản xuất; đồng thời, là đội quân “đối ngoại”, đội quân “quốc tế”, góp phần cùng toàn Đảng, toàn quân, toàn dân xây dựng đất nước Việt Nam hùng cường, sánh vai với bạn bè năm châu.

PHÙNG CHẤT - TRẦN TOÀN

Ý kiến bạn đọc (0)

Chiến thắng 30 tháng Tư - ý nghĩa to lớn, giá trị vững bền
Trong lịch sử dựng nước và giữ nước trước đây, cũng như trong lịch sử cận đại của dân tộc, có những sự kiện lịch sử diễn ra như một tất yếu, càng thêm thời gian càng thấy rõ hơn và nhận thức sâu sắc hơn về ý nghĩa trọng đại, giá trị vững bền của sự kiện đó. Chiến thắng 30 tháng Tư năm 1975 là sự kiện chính trị đặc biệt như thế.